Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời của người biên tập

27/11/201309:51(Xem: 19866)
Lời của người biên tập

Lời của Người Biên Tập
Những kỷ niệm về bà Nội của tôi

Bản Việt dịch: TK. Thích Nguyên Tạng
Diễn đọc: Pt Quảng An







Kỷ niệm đầu tiên của tôi về bà Nội là khi tôi được bảy tuổi. Đó là năm 1959, khi tôi đang học ở St. Joshep’s College, một trường của Dòng Tên thuộc Thiên Chúa Giáo ở Darjeeling, Ấn Độ. Một hôm hiệu trưởng của trường là linh mục Stanford gọi tôi vào văn phòng của ông và nói: “Cậu bé, hôm nay là một ngày lịch sử. Cha mẹ cậu xin phép tôi cho cậu về nhà để ra ga xe lửa Siliguri đón Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài sẽ qua đó”. Đó là lần đầu tiên tôi được biết gia đình của mình là một gia đình đặc biệt.

Khi đến ga xe lửa, chúng tôi phải lách qua đám đông tụ tập để chào đón và chiêm ngưỡng Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa mới trốn khỏi Tây Tạng và đến tị nạn ở Ấn Độ. Lúc đó tôi biết rằng mình là một phần của một sự kiện quan trọng. Đức Đạt Lai Lạt Ma là chú của tôi và tôi chưa bao giờ gặp Ngài trước đây. Mọi người xem Ngài như một vị Phật sống, và gọi bà Nội tôi là Gyayum Chemo, hay Mẹ Lớn. Bà có dáng điệu cao quý và nồng ấm phù hợp với danh hiệu đó. Chúng tôi gọi Bà là Mola (‘momo’ và ‘la’ là tên gọi tôn kính để gọi bà Nội hay bà Ngoại).

Khi mới đến Ấn Độ, Mola ở cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thị trấn Mussoorie, sau đó bà Nội chuyển tới ở với chúng tôi ở Darjeeling. Bà thích ứng với đời sống ở Ấn Độ một cách bình thản và kiên nhẫn, vốn là những đức tính đã giúp Bà trải qua bao nhiêu thăng trầm. Bà luôn có mục đích sống rõ rệt, đó là chăm sóc và hướng dẫn con cháu của mình.

Qua chiến tranh, gian khó, bệnh tật và chết chóc, và dù có những bất lợi về chính trị và biên giới quốc gia, Bà vẫn là tảng đá lớn để gia đình của Bà bám vào. Bà là bến bờ yêu thương và luôn luôn an toàn.

Bà Nội là người dễ dãi và tử tế, nhưng cũng rất kỹ càng trong việc nuôi dạy các cháu của mình. Bà bắt chúng tôi phải ăn uống đúng cách, tức là ăn những món ăn của tỉnh Amdo, quê hương của Bà ở miền đông Tây Tạng, nơi Mẹ của Bà đã dạy Bà nấu ăn; Bà cũng dạy tất cả chúng tôi nấu ăn. Bà thường sửa soạn những bữa ăn và nướng bánh mì cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng đồng thời Bà cũng dạy cho các thị giả của Ngài làm những món ăn của Amdo. Cho đến ngày nay Ngài vẫn dùng những món ăn mà Bà đã làm cho Ngài lúc Ngài còn nhỏ.

Bà Nội cũng giữ gìn những truyền thống và lễ nghi tôn giáo. Vào dịp Tết Nguyên Đán mọi người mặc quần áo mới và đẹp nhất. Khi còn nhỏ tôi thích mặc áo gấm “chuba” mà Mola gởi cho chúng tôi từ Tây Tạng. Nhưng sau năm 1959 khi người Tây Tạng kéo qua Ấn Độ, không có tiền hay tài sản gì cả, bà Nội bảo chúng tôi đừng mặc quần áo đẹp trong ngày tết nữa, nên thông cảm hoàn cảnh của những người tị nạn đó. Chúng tôi chỉ mặc vài bộ đồ mới và không phô trương những đồ trang sức đẹp.

Gyalo Thondup

Cha tôi, Gyalo Thondup & Đặng Tiểu Bình


Cha tôi, Gyalo Thondup, đã trở thành người anh cả trong gia đình, sau khi ông Nội qua đời. Ông là một trong những người chính yếu giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma trốn khỏi Tây Tạng. Bà Nội nói với tôi rằng: Sau cha tôi, tôi sẽ là người gìn giữ danh tiếng của gia đình và đó là một bổn phận quan trọng. Đó là những truyền thống mà bây giờ tôi trao cho con gái của tôi. Đây có vẻ là những điều nhỏ mọn, nhưng tôi tin rằng chúng là những giá trị tạo thành một cá tính mạnh mẽ.

Bà Nội không chỉ chăm lo cho gia đình của mình mà còn nghĩ đến tất cả mọi người khác, dù là bạn bè, viên chức chính phủ hay thường dân. Nếu trông thấy những người Tây Tạng nghèo ở ngoài cửa sổ, Bà sẽ gọi họ đi vô trong nhà, nhìn mặt họ rồi hỏi “Tại sao mấy người có vẻ buồn quá vậy?”. Họ thường trả lời rằng họ không có tiền, và tức khắc bà Nội đặt vào tay họ một món tiền.

Mỗi sáng sớm nhiều người đứng xếp hàng ở cửa sau nhà chúng tôi để xin thực phẩm. Chúng tôi giữ những thùng gạo, bột mì và chúng tôi cho mỗi người một phần để dùng trong ngày. Những năm đầu tiên ở Ấn Độ, đó là thời kỳ khó khăn, và bà Nội đã làm hết sức trong khả năng của mình để giúp đỡ mọi người.

Một viên chức của chính phủ Hoa Kỳ ở cạnh nhà chúng tôi trong những năm tháng đó. Tôi tình cờ gặp lại ông ta vào năm 1979 ở Mỹ, và ông đã nói về bà Nội của tôi. Ông kể lại rằng khi vợ ông sinh đứa con đầu lòng, bà Nội đã nấu món canh gà rồi đưa qua cho bà ta. Tháng đầu tiên sau khi sinh đẻ người ta phải cẩn thận giữ gìn sức khỏe của mình. Người Mỹ này không bao giờ quên lòng tốt của bà Nội đối với một người mà Bà chưa hề quen biết.

Mọi người đều kính trọng bà Nội vì Bà không bao giờ tự cao mà cũng không bao giờ tự hạ mình trước người khác. Bà luôn luôn đối xử với mọi người một cách hiểu biết. Cả những người giúp việc trong nhà cũng yêu kính Bà. Bà không bao giờ ngồi một chỗ ra lệnh, mà tự tay làm công việc và hướng dẫn họ làm việc.

Bà Nội là người mộ đạo. Việc đầu tiên Bà làm vào mỗi buổi sáng là lễ Phật, tụng kinh cầu nguyện và dâng cúng các vị thần Thổ địa. Bà là tấm gương sáng ngời hướng dẫn chúng tôi những giáo lý căn bản trong đời sống tâm linh. Tôi có một bể cá kiểng, và nuôi cá bằng trùn đất. Bà Nội dạy để cho loài thú ăn thịt lẫn nhau là tội lỗi, vì vậy sau đó tôi chỉ cho cá ăn thực phẩm khô để tránh phạm tội tự tay sát sanh.

Bà Nội cũng thích cá. Bà và tôi thường ngắm cá kiểng cùng với nhau và đặt tên cho chúng. Bà nhận xét tính nết của mỗi con cá. Con nào dữ và con nào hiền. Bà dạy chúng tôi hiểu biết về đời sống.

Từ tháng ba đến tháng mười một chúng tôi đi học ở trường nội trú. Cuối năm học, cả nhà đi tới Calcutta để nghỉ mùa đông. Đã hơn sáu mươi tuổi nhưng bà Nội vẫn là người cởi mở và thích vui chơi. Bà đưa chúng tôi đi chơi và thưởng thức những món ăn Ấn Độ bán rong ở ngoài đường. Bà thích xem chiếu bóng và thường dẫn chúng tôi đi xem với Bà. Bà đặc biệt thích phim tình cảm ca vũ nhạc Ấn Độ. Tất nhiên phim Ấn Độ nói tiếng Hindi nên Bà không hiểu những lời đối thoại, nhưng chúng tôi giải thích tình tiết trong phim cho Bà.

Bà là người kể chuyện rất hay. Bà thích làm cho chúng tôi sợ bằng sách kể chuyện ma mèo ăn cắp của người giàu rồi mang cho người nghèo. Bác Thubten Jigme Norbu của tôi đã đi Hoa Kỳ để dạy ở Đại Học Indiana. Khi bà Nội đi thăm Bác ở đó, Bà thích xem những phim kinh dị trên truyền hình Mỹ.

NorbuandbrotherDalaiLama

Bác Norbu & Đức Đạt Lai Lạt Ma

Mỗi khi em trai của tôi và tôi cãi nhau, bà Nội lại can và phân xử ai phải ai trái. Chúng tôi tôn trọng quyết định của Bà vì Bà luôn luôn công bằng. Bà không bao giờ bắt chúng tôi phải nghe lời Bà hay phải làm một việc gì cho Bà. Tình cảm nồng ấm của Bà làm cho chúng tôi cảm thấy an toàn.

Bà Nội có một cái tủ lớn đựng những món đồ của Bà. Bà xếp đặt mọi thứ cẩn thận và ngăn nắp. Ở trong ngăn kéo của cái tủ luôn luôn có kẹo bánh cho các cháu của Bà. Khi nào muốn ăn cái gì chúng tôi xin là Bà sẽ cho ngay.

Tôi khâm phục sức mạnh thể chất cũng như sức mạnh tâm linh của bà Nội. Chúng tôi xây một căn nhà mới có nhiều bậc cấp dẫn xuống sân nhà. Một hôm bà trợt chân té xuống chín mười bậc. Chúng tôi chạy tới, thấy Bà nằm ở dưới đất. Bà đã già và bị thương ở lưng, nhưng ngay lúc đó Bà đứng dậy nói “Bà không sao cả”. Bà cảm thấy đau rất ít. Bà ít khi bị bệnh và Bà biết giữ gìn sức khỏe rất tốt. Nhiều người con của Bà đã chết non nhưng Bà luôn luôn cố gắng chịu đựng những nỗi đau này. Bà Nội đã sinh hạ đến mười sáu người con, nhưng chỉ có bảy người còn sống.

Bà Nội đã làm việc nặng nhọc suốt đời Bà và không thích rảnh rỗi. Khi Bà ở Lhasa và có thai, Bà thường tập thể dục bằng cách leo lên trên mái nhà, ôm một tảng đá đi tới đi lui. Bà nói với chúng tôi “Các cháu hư hỏng rồi, các cháu không biết làm những việc nặng nhọc”.

Vào đầu thập niên 1960 chúng tôi lập một văn phòng Tây Tạng ở Geneva, Thụy Sĩ và Lobsang Samten, anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và là chú của tôi, làm đại diện của Tây Tạng ở đó. Bà Nội đã tới đó ở một thời gian với gia đình của ông. Sau đó Bà tới Bloomington, Indiana, Hoa Kỳ thăm gia đình bác Norbu, anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và cha tôi. Bà đi thăm lần lượt các con cháu của mình, kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thủ phủ lưu vong Dharamsala và chúng tôi ở Darjeeling. Tất cả chúng tôi đều sung sướng được gặp lại Bà vì chúng tôi thích ở cùng Bà. Bà không bao giờ mắng hay chê trách ai. Uy quyền tự nhiên của Bà làm cho mọi người kính trọng Bà.

Cha tôi đã rời Tây Tạng đến Trung Quốc vào năm ông mới mười sáu tuổi. Ông muốn học chữ và học ngành hành chánh. Ở đó ông cưới một cô gái Trung Hoa, Mẹ của tôi, và vì người Tây Tạng nói chung không ưa người Trung Hoa nên bà Nội khuyên cha tôi không nên trở về Tây Tạng với người vợ của mình. Cha mẹ tôi đã đi tới Ấn Độ và sống ở đó. Ở Ấn Độ chị của tôi được sinh ra năm 1950, năm 1952 tôi chào đời, rồi tới em trai của tôi, 1954.

Bà Nội tôi rất dễ dãi và cởi mở với Mẹ tôi. Dù có sự nghi kỵ lâu đời giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa, bà Nội và Mẹ tôi vẫn hợp với nhau. Bà Nội đã cho con gái út và các cháu đi học ở Ấn Độ, nơi Mẹ tôi trông coi họ. Mẹ tôi là một người đàn bà tân thời, có học và quản lý gia đình và nuôi dạy các con theo những phương cách xa lạ đối với bà Nội, nhưng bà Nội chấp nhận những gì Mẹ tôi làm và hết sức giúp đỡ bà. Bà Nội thấy rằng Mẹ tôi có thể trông coi sáu đứa trẻ như con của mình và dạy bảo cho chúng ngoan ngoãn. Tôi không bao giờ nghe thấy một lời nói chê trách hay tức giận nào giữa Nội và Mẹ, và cũng không bao giờ cảm thấy có một chút hờn giận nào giữa hai người.

Mẹ tôi cũng là một người cao quý, thuộc một gia đình danh tiếng ở Trung Quốc. Cha của bà là một viên tướng của Thống Chế Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc). Bà đã học đại học và chuẩn bị du học ở Hoa Kỳ khi gặp và kết hôn với cha tôi. Bà đã chứng tỏ mình không chỉ là một người vợ và một người mẹ tốt mà còn là một công chức có năng lực.

Diki Tsering 2a

Bà Diki Tsering và các con


Năm 1959, khi người tị nạn Tây Tạng bắt đầu đến Ấn Độ, Mẹ tôi nghĩ rằng nên cần phải giúp họ có thể sống tự túc. Với tiền bán vé của một trận bóng đá gây quỹ từ thiện, bà đã mua một miếng đất của Dòng Tên và xây dựng một trung tâm tự lực. Ở đó Mẹ tôi làm việc cần mẫn mỗi ngày và vào lúc bà qua đời vào năm 1986, có gần sáu trăm người sống và làm việc ở trung tâm đó.

Sau khi học xong đại học, chị tôi, Yangzom Doma, đi Anh Quốc để học ở Trường Nghiên Cứu Đông Phương và Phi Châu ở London và chị đã tốt nghiệp môn Hoa Ngữ và Tạng Ngữ. Khi chị trở về Ấn Độ, Cha tôi bảo chị làm việc cho chính phủ lưu vong Tây Tạng. Ông luôn khuyến khích chúng tôi làm tròn bổn phận với dân với nước của mình. Chị tôi làm việc ở Thư Viện Tác Phẩm và Tài Liệu Tây Tạng, nơi chị trở thành chủ nhiệm báo “Tibet Journal”.

Khi ở Dharamsala, chị Yangzom Doma thường tới thăm bà Nội và tất nhiên bà làm những món ăn mà chị ưa thích. Một hôm, vào năm 1979, chị tôi có ý tưởng ghi chép tiểu sử của bà Nội. Khi chị nói ra những ý tưởng này, bà Nội ngạc nhiên vì chưa có ai hỏi Bà có những cảm nghĩ gì về những sự kiện trong cuộc đời của mình. Nhưng bà Nội đồng ý kể những gì Bà có thể nhớ và trong khoảng một năm sau đó, hai bà cháu đã nói chuyện với nhau và chị Yangzom Doma đã ghi lại những lời kể của bà Nội. Khi đã bắt đầu kể thì bà Nội không cần phải có người thúc giục mình nhiều. Chị tôi nói rằng Bà hăng hái kể đến mức những câu chuyện của Bà đều có vẻ tươi mới, dù chuyện đã xảy ra mấy chục năm trước.

Một điều bi thảm xảy ra là chị tôi đã chết trong một tai nạn xe hơi ở Tunisia, Bắc Phi Châu, vào năm 1982. Tôi là người đầu tiên nhận được tin này và tôi nói cho Mẹ tôi biết. Sức khỏe của bà suy sụp vì đau khổ và bà không bao giờ phục hồi hoàn toàn sau khi bị mất con gái của mình. Bà bị ung thư và qua đời năm 1986. Hàng ngàn người Tây Tạng đã đến tụng kinh cầu siêu cho bà trong tang lễ. Dù Mẹ tôi là người Trung Hoa, họ đều tôn kính bà.

Tôi cưới vợ năm 1983 và vợ tôi sớm có thai. Một đêm tại khách sạn ở thành phố New York, chị tôi xuất hiện với tôi trong một giấc mộng. Chị nói với tôi rằng vợ tôi sẽ sinh con gái và chị sẽ là đứa con gái đó. Tôi đã không nói với bất cứ ai về chuyện này vì tôi không biết chuyện này có đáng tin hay không. Khi con gái tôi ra đời, Mẹ tôi rất sung sướng. Đứa cháu gái mang lại một niềm vui nhỏ cho bà sau khi chị tôi mất.

Tôi ly dị vợ khi con gái tôi lên năm và tôi đã phải gà trống nuôi con mười một năm qua. Tôi phải nói rằng con gái giống chị tôi ở nhiều điểm. Thí dụ như chữ viết của hai người giống nhau. Tôi giữ tất cả quần áo và vật dụng của chị tôi trong mấy cái thùng để ở căn gác trong nhà, và con gái tôi thích lục lọi những món đồ này. Cháu nói “Thật kỳ lạ, cô Yangzom có tất cả những thứ mà con thích”. Cháu thích mặc tất cả những trang phục của chị tôi. Vì vậy bây giờ tôi tin chắc rằng chị tôi đã tái sinh trong gia đình tôi và điều này làm cho tôi vui vẻ.

Tôi đã hứa với con gái là tôi sẽ không lấy vợ khác khi con chưa trưởng thành, và sẽ dành tất cả thời giờ cho con. Chúng tôi trở thành đôi bạn tốt. Nhưng năm ngoái tôi nói với con gái “Bây giờ con đã có đời sống của mình, cha đã bốn mươi tám tuổi rồi, và cha cần có một người bạn đời trong tuổi già. Cha cần phải lấy vợ”. Con gái tôi đã đồng ý. Mới đây tôi đã tục huyền và vợ chồng chúng tôi có một con gái vào tháng sáu vừa qua (1999). Chúng tôi đặt tên cho con theo tên của Mẹ tôi. Tôi nghĩ rằng Mẹ tôi cũng đã tái sinh trong gia đình tôi.

Khi Mẹ tôi qua đời, mọi người ở Trung tâm tị nạn đến thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma và thỉnh cầu Ngài chỉ định tôi trong coi trung tâm này. Tôi nói rằng tôi sẽ làm công việc này nếu em trai tôi, một bác sĩ, sẽ giúp đỡ tôi. Vì vậy đó là công việc mà chúng tôi đã làm từ năm 1986 cho đến nay. Hiện tại trung tâm chiếm chín mươi phần trăm thời giờ của tôi.

Trung tâm tị nạn này là trung tâm đáng chú ý nhất ở Ấn Độ vì không dựa vào sự giúp đỡ từ thiện của người khác. Chúng tôi dệt thảm và chúng tôi có một máy in tối tân, một y viện chụp tia X, một phòng xét nghiệm máu, một bệnh viện và một trường học. Chúng tôi phục vụ cho 750 người. Để hỗ trợ cho gia đình mình, vào cuối tuần tôi tới nông trại của tôi ở Kalinpong, nơi tôi có một xưởng làm mì. Những món mì của tôi dùng nhiều ở vùng đó. Tôi cũng là một thành viên được bầu cử của Quốc Hội Tây Tạng. Tôi đã đi nhiều nơi và diễn thuyết về vấn đề Tây Tạng, đặc biệt là khi tôi ở New York, Washington DC và Nhật Bản.

Vì chị tôi đã qua đời trước khi có thể hoàn thành cuốn sách này nên tôi kế tục chị làm công việc quan trọng này. Bà Nội chỉ nói tiếng Tây Tạng và chị tôi đã dịch những lời kể của Bà sang tiếng Anh. Tôi đã soạn những lời ghi chú để xuất bản. Câu chuyện được kể lại ở đây không trọn vẹn, nhưng là những sự kiện quan trọng trong cuộc đời và thời đại của Diki Tsering và là một sự đóng góp cho những nỗ lực của chị tôi. Tôi vui sướng vì bây giờ nhiều người được biết về bà Nội của tôi.


Viết tại Dharamsala năm 2000
Khedroob Thondup
(Cháu nội bà Diki Tsering)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/06/2012(Xem: 35877)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
27/05/2012(Xem: 12020)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
27/05/2012(Xem: 9027)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
26/05/2012(Xem: 7944)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
26/05/2012(Xem: 8770)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
26/05/2012(Xem: 7687)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bi và trí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
25/05/2012(Xem: 9996)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
25/05/2012(Xem: 9900)
Đây là một vùng đất huyền bí và diệu kỳ nhất trên thế giới. Trên rìa của Hy Mã Lạp Sơn, trên góc cạnh sâu kín nhất của Ấn Độ, tôi đã du hành nửa vòng trái đất để đến nơi này, đến nơi trú ngụ của một bậc hiền nhân được cho là hóa thân của Đức Phật, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.
20/05/2012(Xem: 8351)
Nói đến chùa, không thể không nhắc đến Huế. Cố đô là nơi có mật độ chùa chiền thuộc loại cao nhất Việt Nam với trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Lần nào đến Huế tôi cũng đến thăm, lễ Phật và thưởng ngoạn tại ít nhất là 1 ngôi chùa.
20/05/2012(Xem: 9459)
Tháng trước tôi đến dự đám giỗ bố của một người bạn tại ngoại ô thủ đô Hà Nội. Tôi thật bất ngờ khi ở đây có phong tục ăn thịt chó vào ngày giỗ. Mô Phật! Hơn thế nữa, cả nhà lại trực tiếp giết thịt chó tại nhà, tức trực tiếp sát sinh chứ không phải đi mua ngoài chợ. Mô Phật! Đặc biệt hơn cả là chủ nhà giết chính con chó thân yêu mà họ nuôi bấy lâu nay. Thật hết chỗ nói!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]