Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện hai người vô gia cư

21/11/201308:30(Xem: 6391)
Chuyện hai người vô gia cư

vo-gia-cu
CHUYỆN HAI NGƯỜI VÔ GIA CƯ

Tháng 9 năm 2013, Glen James, một người vô gia cư (homeless), sống ở một nơi cư trú dành cho người không nhà (shelter) ở Boston. Ông bất ngờ kiếm thấy một cái ba lô (backpack) ai bỏ quên trong một thương xá. Ông vẫy tay chặn một viên cảnh sát lại và trao cái ba lô lượm được cho viên cảnh sát. Cái ba lô trong đó có chứa $2,400 tiền Mỹ và gần 40,000 chi phiếu du lịch (traveler’s check) cùng với sổ thông hành và một số giấy tờ cá nhân khác.


James làm tùy phái tại một tòa án, vô gia cư từ năm 2005 sau khi bị mất việc. Ông bị bệnh trong lỗ tai, luôn gây ra chóng mặt nên không kiếm được việc làm nào khác. Ông sống bằng phiếu trợ giúp thực phẩm và xin tiền các người qua lại trên đường phố.


Về phần người mất của là một sinh viên người Trung Hoa. Anh đem chuyện sui sẻo của mình kể lể cho những nhân viên trong một cửa tiệm nghe. Những người này bèn giúp gọi báo cho cảnh sát. Cảnh sát kiểm tra thấy đúng nên trao trả chiếc ba lô cho khổ chủ.

Cảnh sát Boston tổ chức một buổi lễ tuyên dương James và trao bằng khen. Nhân dịp này James nói là mình cảm thấy rất thoải mái khi làm việc đó và cũng gửi lời nhắn cám ơn đến tất cả những khách bộ hành lạ mặt đã từng cho ông tiền khi ông ngồi trên đường phố trong thời gian qua. James thổ lộ là ông không nói nhiều vì bị “cà lăm” nên trao cho cảnh sát một tờ giấy trong đó viết là “dù ông có quá nghèo chăng nữa ông cũng không muốn giữ lại một xu nào của người khác khi tìm thấy…” James đầu hói, đeo kính, người nhỏ nhắn tỏ ra thân mật nhưng e thẹn. Khoảng trên 50 tuổi.


Sau khi biết tin đó trên internet, một người lạ mặt 27 tuổi, ở Midlothian, Va., làm giám đốc kế toán cho một cơ sở tiếp thị, tỏ ra thán phục sự lương thiện này. Anh tên là Whittington. Anh mở một quỹ lạc quyên cho James. Với ý nghĩ James đã hoàn trả $40.000 thì đáng được quyên tới $50.000. Kết quả tốt không ngờ. Chỉ trong một ngày đầu mà đã thu được hơn số tiền này.


Sau đó trong 2 ngày quyên được hơn $100,000. Hơn 4,000 người gửi tặng. Sau 2 tuần lễ tiền quyên tặng đã lên tới hơn $150,000. Hơn 6,000 người tặng. Cả ở Mỹ lẫn các nước khác như Ba Tây, Pháp và Úc v.v… Người ta tặng cả máy vi tính, quần áo, thực phẩm v.v… Anh Whittington nâng mục tiêu lên, hy vọng đạt tới $250,000 để ông James có thể mua được một căn nhà làm nơi cư trú.

*

vo-gia-cu_2
vo-gia-cu_3

Nhân dịp này mọi người lại nhớ tới chuyện của một ông vô gia cư khác nữa, xảy ra khoảng hơn nửa năm trước, đó là ông Billy Ray Harris. Vào tháng 2 năm 2013, tại Kansas City, Mo., bà Sarah đi trên đường, có lòng tốt nên bỏ ít tiền lẻ vào trong chiếc ly để biếu cho một người “ăn mày vô gia cư” (homeless begger) ngồi ăn xin bên lề đường tên là Harris, 55 tuổi. Ông này thường ngủ dưới gầm một cây cầu.


Bà có hai chiếc nhẫn, một nhẫn đính hôn và một nhẫn cưới. Có lẽ đeo trên tay lâu năm làm tay bà chật chội khó chịu hay sao đó nên bà tháo ra và cất trong ví tiền của mình. Khi thò tay lấy một nắm tiền lẻ trong cái ví tiền này để bố thí bà đã vô tình bốc theo luôn cả chiếc nhẫn đính hôn bỏ vào trong ly của người ăn xin.


Khi bà khách đã đi rồi ông Harris mới khám phá ra chiếc nhẫn. Ông biết ngay là có sự lầm lẫn. Thoạt tiên ông có ý định muốn bán chiếc nhẫn đi. Ông mang tới một tiệm kim hoàn tại địa phương và được đề nghị trả $4,000. Nhưng sau khi suy nghĩ lại thời ông giữ chiếc nhẫn này kỹ càng, không bán nữa, chờ chủ nhân trở lại. Quả nhiên mấy hôm sau khi bà hảo tâm quay lại ông đã vui vẻ hoàn trả ngay chiếc nhẫn. Không ngờ đây lại là một quyết định làm thay đổi cả cuộc đời ông về sau này.


Một người bạn của bà Sarah kể chuyện này cho một phóng viên đài tin tức ở địa phương. Thế là câu chuyện được phóng lên khắp nơi. Bill, chồng bà Sarah cảm động về sự thật thà và tử tế của Harris nên thiết lập ngay một cuộc quyên tiền cho Harris trong 90 ngày trên internet. Mong quyên được $4,000. Không ngờ là Harris nhận được hơn $190,000 sau 3 tháng quyên góp.


Khi hay biết hành động không tham lam của Harris và lòng biết ơn của vợ chồng bà Sarah nhiều người lạ tìm tới Harris để khen ngợi và biếu đồ ăn. Một người viết: “Thật là quý hóa khi thấy sự thật thà vẫn còn tồn tại mà ông Harris là một điển hình.” Người này tặng 25$. Một người khác tặng 100$ và viết thêm: “Mọi người trên khắp thế giới đều hoan nghênh!” Những món tiền tặng dữ nhiều ít khác nhau - hơn 8,000 khoản – đến từ khắp nơi trên đất Mỹ, lẫn Đức, Thụy Điển, Úc, Ái Nhĩ Lan và các quốc gia khác. Thêm vào những lời chúc mừng và khen ngợi, một vài người tặng tiền cũng nói sẵn sàng giúp đỡ thêm cho Harris để quản lý số tiền nhận được. Harris nhận được 758 cái ôm quý hóa (hugs) của khách qua đường.


Chính Harris thì tỏ ra sửng sốt vô cùng và nói trong một cuộc phỏng vấn rằng không ngờ cả thế giới lại quan tâm như thế đối với một người hoàn trả lại một thứ gì đó không thuộc quyền sở hữu của mình. Harris nói: “Tôi không phải là thánh nhưng cũng chẳng phải là quỷ.” Harris nay có một xe hơi và có tiền đặt cọc để mua một căn nhà. Ông dự định mở một công ty sơn nhà cửa.


Một điều không ngờ khác là nhân dịp này Harris trở nên nổi tiếng và sau khi xuất hiện trên đài truyền hình thời thân nhân ở phương trời xa nhận diện được ra ông và tìm cách báo tin. Ông có dịp đoàn tụ với các người em gái mình sau gần 16 năm mất liên lạc. Gia đình tưởng là Harris đã chết mất rồi.


*

Câu chuyện về lòng chân thật của James và Harris, hai người vô gia cư tuy nghèo khổ nhưng không tham lam này khiến chúng ta nhớ đến những lời Đức Phật từng dạy về “Tham, Sân và Si”. Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng tam độc “tham, sân, si” là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người, cần phải tiêu diệt. Tham, sân, si có thể được tìm thấy một cách dễ dàng nơi hành động, ngôn ngữ, và ý nghĩ của chính mình cũng như của kẻ khác. Kinh nghiệm cho ta biết bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc sống riêng hay chung đều trở nên xấu xa đau khổ. Tham sân si là sản phẩm của con người và xã hội và chính chúng là nguyên nhân làm hư hại cuộc sống an lành của loài người giống như bông tre nở từ cây tre và là biểu tượng suy tàn của cây tre, nghĩa là khi tre trổ bông là lúc tre tàn lụi.

Việc thực hiện con đường đi ra khỏi “tham, sân, si” luôn luôn được Đức Phật quan tâm và khuyến khích các đệ tử của Ngài hành trì để từ đó các pháp an lạc được tăng trưởng và các pháp khổ đau được diệt trừ. Nếu không khéo hành trì thì không những các khổ đau tăng trưởng mà các thiện pháp cũng bị tiêu trừ. Nếu ai ráng tu tập và trau dồi tâm trí để thoát khỏi vòng phiền não “tham, sân, si” tất nhiên người ấy sẽ được hoàn toàn giải thoát.

Đức Phật cũng nói cho chúng ta biết còn có ba pháp nữa là “Vô tham, Vô sân, Vô si” là những yếu tố tâm lý cần nên phát triển để xây dựng cuộc sống an lành. Muốn phát triển ba pháp thiện này chúng ta phải tu dưỡng theo chánh đạo gồm “Giới, Ðịnh và Tuệ”.Lời khuyên thời thật dễ dàng, nhưng loài người đâu có dễ dàng phục thiện. Vì con người, đã lâu đời lâu kiếp bị những phiền não căn bản nhiếp phục chi phối. Theo Phật Giáo, pháp học sẽ không bổ ích nếu không thật sự thực hành điều đã học. Như vậy, Phật Giáo không phải là một triết học suông mà là con đường giác ngộ duy nhất.

Riêng về khoản tham thời cần hiểu rằng “Tham” là tham lam, là ham muốn thái quá. Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu. Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham.”

Ở đời, có năm món dục lạc, mà người ta thường ham muốn nhất là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. “Ngũ trần dục lạc” ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Tham tiền thời phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính để chiếm đoạt và khi mất thì lại đau khổ. Đối với sắc đẹp nên quán thân là bất tịnh, tham sắc thì nhiều khi lại lao vào những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng dục vọng. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí. Tham ăn uống cao lương mỹ vị thì bị nhiều bệnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ thì trí não hóa đần độn. Ngũ trần dục lạc đó chính là những nguyên nhân ràng buộc kiếp người vào vòng sinh tử, luân hồi, sa đọa.

Truyện tích kể rằng một phú gia không con, chết đi, bỏ lại tất cả tài sản sự nghiệp lớn lao. Vua truyền lệnh cho nhập gia sản của ông vào quốc khố và đến hầu Đức Phật. Vua bạch lại tự sự với Đức Phật và ghi nhận rằng mặc dầu nhà phú gia này ở gần nơi Đức Phật ngự, không bao giờ ông để bát cúng dường Ngài. Nhân cơ hội này Đức Phật kể thêm về tiền kiếp của phú gia là đã từng làm việc thiện bằng cách cúng dường một vị Bích Chi Phật nhưng lại tiếc của đem cúng và còn phạm một tội ác là giết cháu ruột để giành gia tài của anh mình. Đức Phật nhân đó dạy trong Kinh Pháp Cú rằng:

(Pháp Cú 355)

Giàu sang, tài sản dồi dào

Chỉ làm hại được kẻ nào ngu thôi,

Dễ gì hại được những người

Đang cầu giác ngộ hướng nơi Niết Bàn,

Chỉ vì ham muốn giàu sang

Kẻ ngu tự hại bản thân đã đành

Hại thêm cả kẻ xung quanh.

Đức Phật ngợi khen người không tham lam và khuyên mọi người nên cúng dường các vị đó. Nhưng khi bố thí nên suy xét kỹ càng. Làm vậy sẽ tương tự như nếu đem hạt giống mà gieo trên đất lành, đất màu mỡ thời hạt mới đơm hoa, kết trái sum suê. Nếu gặp người thọ thí có đức hạnh mà bố thí sẽ được phước báu nhiều. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Ðức Phật dạy tham như cỏ hoang làm hại ruộng nương, đây là làm hại “đất tâm” của người tu hành và trị tham chẳng gì hơn là việc bố thí:

(Pháp Cú 356)

Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Tham lam gây hại nhiều hơn cho người,

Tham lam ai đã lìa rồi

Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng

Hưởng về phước báu vô vàn.

Đức Phật còn dạy là đừng để tham và sân, đừng để tội lỗi lôi mình vào cảnh khổ. Tội lỗi ở đây nghịch nghĩa với chánh hạnh, là không theo giáo pháp, trong câu sau này có nghĩa là sân hận. Căn nguyên của điều ác là tham lam và sân hận:

(Pháp Cú 248)

Các ngươi nên biết rõ rằng

Dễ gì chế ngự việc làm ác đâu

Tham lam, tội lỗi hố sâu

Kéo ta xuống chốn khổ đau đời đời.

Không tham cũng được hiểu là không trộm cắp tức là không lấy những tài vật thuộc quyền sở hữu của người khác mà không có sự ưng thuận của họ. Đức Phật cấm trộm cắp vì lý do tôn trọng sự công bằng, tôn trọng sự bình đẳng, tôn trọng quyền tư hữu, diệt trừ lòng tham, nuôi dưỡng lòng từ bi và tránh nghiệp báo oán thù. Trong khi cố gắng lánh xa hành động trộm cắp con người cũng phát triển đức tính liêm khiết, chân thật và chính trực.

Một vị A La Hán trên đường đi khất thực về thấy một miếng vải bị gió bay rơi dưới đất, vừa lượm lên thì chủ khúc vải nhận thấy, tri hô là ngài lấy trộm. Ngài giải thích rằng ngài không có ý định trộm cắp và trao trả vải lại cho chủ. Nhưng người kia đem câu chuyện thuật cho các vị khác nghe, và các vị ấy cười chê ngài. Ðức Phật giải thích rằng chư vị A La Hán không khi nào còn trộm cắp của người:

(Pháp Cú 409)

Thế gian hễ cứ một ai

Không hề lấy vật mà người không cho

Dài hay ngắn, nhỏ hay to

Dù tốt hay xấu, dù hư hay lành

Bà La Môn thật xứng danh.

Không lấy của người, không lấy của không cho, mà trái lại còn lấy của mình để đem bố thí cho những kẻ thiếu thốn. Nếu không gian tham trộm cắp, mà lại làm hạnh bố thí thì theo kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” được những pháp lành như sau: “Tiền của có dư không bị nạn giặc giã cướp mất hay bị chính quyền tịch thâu, không bị nạn lụt trôi, lửa cháy và con cái phá tán; Ðược nhiều người tin cậy; Không bị lừa dối, gạt gẫm; Xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng của mình; Lòng được an ổn, không lo sợ vì sự tổn hại gì cả; Khi chết rồi được sinh lên cõi trời”. Cũng được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây: “Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại, của cải không bị mất mát, hưởng phúc đức và những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, mặc dù mình không mong ước.”

Một điểm cần nói thêm nữa là vấn đề “nhân quả”. Trong báo chí, tờ Huffington Post nhận xét về sự lương thiện của ông James là: “Homeless Man Who Returned $40,000 Finds Out That Karma Is Just The Greatest.”(Người vô gia cư trả lại 40 ngàn đã nhận chân rằng nghiệp quả là điều vĩ đại nhất). Báo đó đưa ra lời kết luận: Karma really is a wonderful thing, isn't it?” (Nghiệp quả đích thật là một điều tuyệt hảo, phải không nào?)

Những tư tưởng và hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối nhục nhã, khổ đau như thế nào thì trái lại những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ sẽ tạo ra những hậu quả xán lạn, vinh quang và an vui cũng như thế ấy. Chuyện về hai người “vô gia cư” James và Harris nói trên đã chứng minh cho chúng ta thấy cái “quả”tốt đẹp, bất ngờ đã gặt hái được khi họ gieo “nhân”tốt, đó là tính chân thật, không tham lam, “vô tham.”


Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(Mùa Lễ Tạ Ơn Thanksgiving,
tháng 11-2013)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2011(Xem: 8394)
Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:
26/07/2011(Xem: 8389)
Quyển “MỚI VÀO CỔNG CHÙA” ra đời trước, chúng tôi hướng dẫn độc giả vừa mới làm quen với mùi tương dưa, còn ngỡ ngàng khi bước chân vào cổng chùa. Đến quyển “VÀO CỔNG CHÙA”, chúng tôi nhắm đến những độc giả đã quen thuộc với những chiếc mái vốn cong, từng nghe tiếng mộc ngư nhịp đều buổi tối và tiếng chày kình ngân nga buổi khuya. Tuy nhiên vẫn còn là khách thấy nghe thân cận nhà chùa, chưa phải là người sống trong chùa.
24/07/2011(Xem: 8174)
Ngày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này. Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.
22/07/2011(Xem: 6794)
Bạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người. Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).
22/07/2011(Xem: 6975)
Bên cạnh sự ảnh hưởng trực tiếp của gia đình, trong cuộc sống chúng ta, mối tương giao với bạn bè cũng đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của mình. Trong mối quen biết ngoài xã hội, hay trong đoàn thể cùng sống chung, ta có nhiều loại bạn hữu; nhưng tìm được người bạn tốt, chân thật hiểu được ta, để có thể chia sẻ tâm tư là điều khó, huống chi là hỗ trợ ta vượt qua những khó khăn trong đời sống thì càng khó gấp bội phần.
22/07/2011(Xem: 6711)
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.
22/07/2011(Xem: 7197)
Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.
16/07/2011(Xem: 7727)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
15/07/2011(Xem: 7595)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
14/07/2011(Xem: 9539)
Phật nói: Đời người ở thế gian, nhỏ là gia đình, quyến thuộc, lớn là quốc gia,dân tộc, đều không ngoài "báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ". Do bốnthứ duyên này mà tương hợp. Hà huống tập khí và nghiệp chướng của chúng sanh sâunặng, sống thiếu ân nghĩa, bố thí đức huệ thì ít, kết oán thì nhiều, do đó màluân hồi trong lục đạo từ vô lượng kiếp đến nay để oan oan tương báo, khổ khôngkể xiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]