Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thời gian & kỷ niệm (Nguyên Như)

10/11/201318:55(Xem: 28707)
Thời gian & kỷ niệm (Nguyên Như)
TVQD_The Gioi Hoa Nghiem Phat A Di Da

THỜI GIAN VÀ NHỮNG KỶ NIỆM

Tôi bước chân vào Tu Viện Quảng Đức vào năm 1991, qua sự giới thiệu của người bạn cùng lớp Anh Văn, lúc đó Chùa chỉ là một ngôi nhà nhỏ ở Broadmeadows, đến đầu năm 1997 Chùa dời về trường Tiểu học Fawkner. Vậy mà trong thoáng chốc đã 20 năm rồi, thời gian có lúc tưởng như cô đọng lại, nhưng thật ra trôi nhanh quá.

Là con người, trong đời ai cũng có một vài kỷ niệm khó quên, nhất là cái duyên lành đưa tôi đến với Phật Pháp, trở thành đệ tử Phật, học giáo lý để thay đổi cuộc đời của mình. Ở Việt Nam tôi là một cô giáo dạy học, tôi tự hào về nghề nghiệp của mình, tôi nhớ lại hồi đó tôi là một người ăn to nói lớn, nghĩ sao nói vậy không kiêng dè, nhưng từ khi trở thành một đệ tử Phật, tôi lập tức thay đổi, thay đổi theo môi trường sống trong hùa, ai ai cũng ăn nói cẩn trọng, nhỏ nhẹ và khiêm nhường, từ đó tôi tập rèn luyện tánh nết, tu tâm dưỡng tánh để đi theo con đường thánh thiện. Đến chùa tôi có dịp gặp lại bạn cũ và quen thêm bạn mới, nơi đây tôi học được món bún riêu chay, chiên khoai tây làm bì v.v...Lúc đó tôi thích học, thích làm lắm mà chẳng ai cho vì... dở quá, lúc đó đã có Dì Bảy Diệu Phước, Kim Ngọc, chị Hai (bây giờ là Sư Cô Hạnh Nguyên) là những người đầu bếp của Chùa Quảng Đức cũ. Tôi còn nhớ có một lần Sư Phụ tôi nói: “Đệ tử Nguyên Như, mai mốt Thầy giao việc nấu nướng cho con đó”. Không biết Thầy nói thật hay chỉ nói đùa, vậy mà cũng làm tôi lo lắng, vì tôi có biết làm gì đâu, nên tôi trốn luôn không dám xuống chùa cả hai, ba tuần, phải đợi Thầy gọi phone nhắc mới dám trở về chùa. 

Một kỷ niệm khác mà tôi còn nhớ mãi vì việc làm không cẩn thận của mình, số là tôi có bổn phận dọn cơm cho Phật tử, một lần Sư Phụ Tâm Phương bảo để lại cho Thầy một mâm cơm riêng để đãi khách. Sau buổi lễ Thầy bảo dọn cơm cho khách, tôi nói là đã dọn cho Phật tử ăn rồi, nhưng Thầy bảo là chưa thấy gì cả và nói sao tôi làm việc chậm chạp quá, ý của Thầy nói để dành cho Thầy đãi khách từ xa đến, chứ không phải là khách đi tụng kinh hằng tuần tại chùa, lúc đó tôi và Thầy Thiện Đạt (lúc mới bên trại Tỵ Nạn sang Úc, đang tạm cư trú tại TVQĐ) bị Sư Phụ quở trách, và ngay lập tức chúng tôi phải nhanh chóng dọn một mâm cơm khác để Sư Phụ đãi một vị khách Tăng đến từ Hoa Kỳ. 

Lúc đó, ngôi Chùa Quảng Đức tuy nhỏ, nhưng rất ấm cúng, chị em chúng tôi cứ cuối tuần ríu ríu kéo nhau về tụng kinh, tu học, làm công quả, trò chuyện cùng nhau vui vẻ. Bây giờ chùa dời về vùng Fawkner, nhà cách xa chùa, tôi không thường về phụ dọn dẹp trong bếp ngoài sân chùa như trước nữa, nhưng những kỷ niệm nơi ngôi chùa nhỏ ấy luôn ở trong tâm khảm của tôi, không bao giờ quên, chính nơi ngôi chùa nhỏ ấy, với sự giáo dưỡng của Sư Phụ, đã ươm mầm xuất gia cho nhiều người như Sư Cô Hạnh Nguyên, Sư Cô Thành Liên, Sư Cô Nguyên Thường, Thầy Pháp Cơ, Thầy Linh Tấn v.v... Còn riêng bản thân tôi vẫn loay hoay với mái ấm gia đình nhỏ bên ngoài mà chưa biết bao giờ mới đủ duyên xuất gia theo chân các bạn được. 

Những kỷ niệm dù buồn hay vui, nhưng đến với đạo đã giúp cho tôi học hỏi được Phật Pháp, biết đường đi lối về của Nhân Quả Nghiệp Báo, biết tu tập để giảm bớt chướng ngại khổ đau cho đời sống này. Chúng con xin đê đầu thành kính tri ân đối với Sư Phụ Tâm Phương đã vượt qua bao gian khổ để kiến tạo nên ngôi Tu Viện này để cho chúng con có nơi nương tựa tu học; chúng con cảm ơn Thầy Phó Trụ Trì Thích Nguyên Tạng đã dạy cho chúng con tu tập tại Tu Viện và hướng dẫn hàng đệ tử chúng con tham dự các khóa tu hằng năm của Giáo Hội cũng như dẫn dắt chúng con đi hành hương về thăm Tứ Động Tâm ở Ấn Độ và Tứ Đại Danh Sơn ở Trung Quốc… Công đức tôn tạo và hướng dẫn của quý Ngài rất lớn, con xin phát nguyện tinh tấn tu tập để khỏi cô phụ lòng tin tưởng và giáo hóa của quý Ngài. 

Nam Mô A Di Đà Phật. 

Melbourne, Mùa An Cư Kiết Đông năm 2010

Đệ Tử NGUYÊN NHƯ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4720)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5029)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4515)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3747)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7565)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4747)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6178)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5332)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12167)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5364)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]