Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật sự viên thành (Nguyên Lượng)

10/11/201318:19(Xem: 29996)
Phật sự viên thành (Nguyên Lượng)

TVQD_ Lo Thien Phat A Di Da 2a


PHẬT SỰ VIÊN THÀNH

Tôi sinh ra trong một gia đình theo tín ngưỡng Phật Giáo từ nhiều đời ở xứ Quảng Nam, nhờ công đức này của Tổ Tiên mà sau năm bảy mươi lăm, tám năm gian khổ trong các trại cải tạo ở miền cao nguyên Việt Bắc, những lúc bản thân gặp sự hiểm nguy và đối mặt với cái chết, tôi nhớ Phật, tưởng Phật và niệm Phật, nên đã vượt qua mọi chướng nạn trong đời sống. Ơn đức đó phải được kể đến Sư Phụ Bổn Sư của tôi là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ, người mà tôi có duyên may quy y với Ngài tại Chùa Báo Quốc, Huế vào đầu năm 1950, người đã luôn luôn nhắc nhở khi tôi lên đường nhập ngũ ( SVSQTB / K12TĐ 1961 ).

Lời khuyến giáo tu tập của Ngài lúc đó tôi không quan tâm nhiều, vì lúc ấy trong tay tôi luôn có vũ khí và có quân lính dưới quyền, hơn nữa bổn phận người trai trong hoàn cảnh tổ quốc lâm nguy đâu sá gì sự nguy hiểm của bản thân, dù rằng trong người đã 3 lần bị trọng thương trong lúc giao chiến.

Từ sau tháng năm bảy mươi lăm, người dân miền Nam nói chung đã gánh chịu gian khổ cho một cuộc đổi đời. Riêng những người tham dự trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, những người trong guồng máy Quốc Gia chịu nhiều đắng cay khổ cực hơn, lao động khổ sai và còn bị lưu đày đến các trại cải tạo tại vùng rừng núi biên cương lạnh lẽo. Sự hiểm nguy luôn luôn đeo sát bên mình và chính đó là lúc con người mới giác ngộ, mới nghĩ đến tôn giáo của mình để mong cầu sự che chở, để nương tựa tìm một chút bình an cho tâm hồn, trong số đó có bản thân tôi.

Đến định cư tại Úc Đại Lợi tháng 6 năm 1984, vừa lo cho cuộc sống gia đình, vừa tham gia các sinh hoạt xã hội, thỉnh thoảng mới đi đến chùa lễ Phật, chùa nào cũng đến lạy Phật rồi về, đi cho có lệ chứ không quan tâm gì, cũng có những lúc tình nguyện làm công quả hay tham gia Phật sự chùa này hoặc chùa khác.

Vào mùa hè 1990 người chị của tôi cùng các bà bạn khác từ Nha Trang đến Úc để thăm thân nhân. Trong dịp này chị em mới gặp nhau và tôi đưa chị đi thăm Tu Viện Quảng Đức tại đường Bamburgh ở vùng Broadmeadows. Chùa được dựng lập theo kiểu " cải gia vi tự" từ một căn nhà 3 phòng do Thầy Thích Tâm Phương làm Trụ Trì, không gian chật hẹp, không có nơi đậu xe, chỉ đậu dọc theo đường lộ trước nhà dân chúng, dân vùng này đa số là di dân và không cùng tôn giáo với mình, nên chúng tôi nghe Thầy nói là chùa luôn gặp khó khăn trong mọi sinh hoạt. Thời điểm mà chị em tôi đến thăm chùa là gặp lúc trời mưa, đường vào Chùa hẹp và trơn trợt nên phải cẩn thận kẻo bị ngã té. Sau vườn, Thầy làm mái che thêm ra để có nơi Phật tử thọ trai, chỉ còn một mảnh đất trống rộng độ 2 chiếc chiếu mà Thầy dự tính sẽ an vị tượng Quán Thế Âm lộ thiên. Lúc này là lúc tôi và chị tôi động lòng cảm xúc và thương xót. Ngôi nhà quá chật hẹp, thương cảnh chùa quá nghèo nàn, thương Thầy quá đổi khó khăn trong sinh hoạt, tôi cùng đa số Phật tử đến đây đều có cảm nhận như vậy, trong số Phật tử của chùa có một vài đạo hữu thân quen ngày trước như: Đạo hữu Long Quân, đạo hữu Nguyên Khang và đạo hữu Võ Đại Sinh.

Trên đường về chị tôi khuyên nên thường xuyên về công quả để giúp Thầy xây chùa. Tôi vâng dạ, nhưng nhìn lại mình chỉ là hạt cát nhỏ đâu có cơ nghiệp gì, bản thân và gia đình vẫn còn ở nhờ nhà chính phủ. Nhưng thấy Thầy hiền từ dễ kính mến mà bản thân tôi cũng đã vài lần thăm viếng Thầy khi Thầy còn làm Trụ Trì Chùa Quang Minh, ngôi chùa lúc đó cũng chỉ là một ngôi nhà nhỏ trên đường Morris, vùng Sunshine, nên theo lời khuyên của chị, tôi thường xuyên về Tu Viện Quảng Đức để lạy Phật và cùng làm công quả với Phật tử.

Tôi nhớ, vào đầu năm 1997 chính phủ của Thủ hiến Jeff Kennet ra lệnh bán một số trường tiểu học và dồn các trường học lại để không phí phạm cơ sở hạ tầng. Nhân lúc này Thầy Tâm Phương bàn tính mua một ngôi trường cũ, tại vùng Fawkner, Phật tử chúng tôi không ai có ý kiến bàn ra bàn vào gì cả cứ im lặng để Thầy tự lo liệu. Phật tử vừa mừng vừa lo: nếu mua được thì có nơi rộng rãi thờ Phật trang nghiêm và sinh hoạt thoải mái; Nhưng lo tiền đâu có đến gần nửa triệu đô để mua. Sau thời gian ngắn Thầy quyết định mua và chính phủ bằng lòng bán. Cả vợ chồng chúng tôi cũng vừa mừng vừa lo. Bà xã tôi nói: “Thầy Tâm Phương gan thiệt, can đảm thiệt, trong tay Thầy không có một đồng và cũng không có tài sản thế chấp rứa mà Thầy có gan mua được.

Mọi việc được tiến hành và Tu Viện Quảng Đức ở Broadmeadows đã được dời về nơi đây. Phòng khách của ngôi trường cũ được sửa sang để tạm thời làm chánh điện, và lễ An Vị Phật đã được cử hành vào ngày 20/11/1997.

Trong dịp này Thầy Trụ Trì Thích Tâm Phương có tâm sự với tôi: “Bác Nguyên Lượng ơi ! bác đã lớn tuổi rồi, bớt các công tác sinh hoạt ngoài xã hội để về đây chung lưng với các đạo hữu và cùng Thầy đồng cam cộng khổ để kiến tạo Đạo Tràng Tu Viện Quảng Đức. Thầy dự tính xây cất Chánh Điện thờ Phật, kinh phí dự trù khoảng một triệu đô". Tôi vui vẻ nhận lời nhưng trong tôi hai lỗ tai của tôi nghe tiếng lùng bùng như đang lặn sâu dưới nước, mắt hoa lên, nhìn về phía trước là một khối tiền khổng lồ lấy đâu ra để mà xây dựng được. Thầy quyết tâm là phải tiến chứ không lùi, đó là bản tính của Thầy mà ai gần Thầy cũng biết. Thầy nói: “Ngày 10/12/2000 chùa mình sẽ cử hành lễ đặt đá”, vậy mà hôm tháng 11 vừa rồi, Thầy làm lễ tang cho bà ngoại của các cháu tại chánh điện mà không nghe Thầy nói gì cả, bây giờ nghe Thầy nói tôi mới giật mình. Chính thời gian này tôi thật lòng xăn 2 tay để cộng tác giúp Thầy, công việc gì tôi làm được thì tôi phát tâm làm ngay chứ không hề từ chối. Từ việc tổ chức gây quỹ xây dựng như cơm chay, buổi văn nghệ đều nhận bốn, năm xấp vé để dạo bán, còn mang sổ vàng của Chùa đến gõ cửa từng nhà các mạnh thường quân.

Tôi nhớ rằng những công việc này thường gặp cảnh đắng cay và tủi thân. Có một lần tôi mang sổ vang vào phòng mạch của một vị bác sĩ, khi đến nơi thì bác sĩ đã ra ngoài để ăn trưa, cô thư ký bảo tôi ngồi chờ nửa tiếng sau bác sĩ quay lại. Qua nửa tiếng, tôi chờ thêm 20 phút nữa vẫn không thấy bác sĩ trở về, tôi bèn đi và nói với cô thư ký 10 phút sẽ quay lại, nhờ cô viết một tấm giấy hẹn để ngay bàn bác sĩ cho tôi được gặp. Khi tôi trở lại thì cũng là lúc bác sĩ trở về phòng mạch, vị bác sĩ cho mời gọi một bệnh nhân vào khám bệnh, khi ông ấy trở ra để đưa bệnh nhân khác vào khám vậy mà ông không hề hỏi han gì đến tôi, tôi liền đứng dậy tới gặp ông đưa quyển sổ vàng và trình bày: “Thưa bác sĩ, tôi là Phật tử từ Tu Viện Quảng Đức ....”. mới nói đến đó vị bác sĩ đưa tay xua đuổi tôi vànói: "À tôi biết rồi, ông về đi, tôi sẽ gặp Thầy sau". Thế là vị bác sĩ quay lưng bước vào phòng. Tôi ôm sổ đi ra khỏi phòng mạch với sự ngậm ngùi, bước vào xe thì bà xã tôi hỏi: “Việc gì xảy ra mà anh cảm thấy mỏi mệt như vậy?". Tôi kể lại câu chuyện phải chờ đợi mất cả tiếng đồng hồ mà còn bị ông bác sĩ xua đuổi như vậy đó. Nhà tôi nói: “ Chấp nhất làm chi cho thêm phiền não, vì anh có xin cho cá nhân anh mô mà anh lo lắng. Cúng dường cho Chùa thì có phước, không cúng thì không có phước, đơn giản vậy thôi, ở Melbourne này còn nhiều mạnh thường quân khác mà, anh cố gắng gõ cửa vị khác, chứ đừng có nản lòng, bây giờ anh lấy lại bình thản để mà lái xe về chứ cố chấp mà lạng quạng lái xe nguy hiểm.”

Hằng tuần tôi vẫn đi lễ Phật như thường lệ nhưng mang trong lòng một sự tủi thân. Có một hôm sau khi làm lễ xong, tôi kể lại sự tủi thân của mình để trút bớt nỗi phiền lòng và cũng để chia sẻ với Thầy Trụ Trì. Nghe xong Thầy dạy rằng: “chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa môn, mình vì công việc Phật sự và xây dựng nên cố gắng nhẫn nhục để làm việc đạo, xin bác đừng nản lòng thất chí mà bỏ mất cơ hội để đóng góp cho Đạo Pháp và Dân Tộc, Thầy đã từng chịu nhiều đắng cay rồi và tất nhiên chưa hết đâu thưa bác, trong Luận Bảo Vương Tam Muội từng dạy rằng: với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Nên chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà cầu mong thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thế tôn thực hiện tuệ giác bồ đề ngay trong mọi sự trở ngại. Ương quật hành hung, Đề Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi, và sự phá hoại lại làm sự tác thành, hay sao? Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại ập đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào?".

Nghe lời khai thị của Thầy mà lòng tôi cảm thấy nhẹ nhàng như trút hết bao nỗi lụy phiền. Vào đầu năm 2003, nhị vị Chánh Phó Trụ Trì lên chương trình lễ khánh thành sẽ tổ chức vào tháng 10 năm 2003. Giấy mời đến các quan khách chính phủ sẽ gởi trước 6 tháng cho chính khách tiện việc sắp xếp, phần tôi thì được giao phó lo mời phía cộng đồng người Việt và truyền thanh báo chí.
Nguyen Van Do
Suốt hơn 3 năm xây dựng sắp hoàn thành và tài chánh cũng khô cạn. Hội đồng thành phố đến xem và khuyến cáo là phải có hệ thống chữa lửa mới cấp giấy phép để khai trương. Thế là các đạo hữu cùng Thầy lo kiếm tiền để thực hiện hệ thống cứu hỏa này, lần thứ 2 Hội đồng thành phố đến xem xét để cấp giấy phép thì lại bị khuyến cáo thêm lần nữa là phải thực hiện chiếc thang máy cho người tàn tật lên Chánh Điện lễ Phật. Thời điểm này cả Thầy lẫn trò không ăn ngon ngủ yên được, đào đâu mà ra tiền nữa, Phật tử gần xa đã hết công sức tiền của đóng góp trong 3 năm nay rồi, đâu nỡ lòng mở lời kêu gọi nữa. Thầy trò bàn tính kêu gọi đến mạnh thường quân người Hoa. Thật là hiển nhiên khi gian truân thì có Phật độ. Chỉ mới gõ cửa một vị Phật tử người Hoa, Ông bà sẵn lòng cúng dường chiếc thang máy với phí tổn là 70 ngàn Úc kim để việc khánh thành chùa được tiến hành. Gia đình mạnh thường quân này chính là chủ nhân Happy Palace Reception ở vùng Pascovale.

Ngày 10, 11 và 12 tháng 3 năm 2003 đại lễ khánh thành được cử hành trọng thể. Chư Tôn Thiền Đức khắp thế giới đều về đây tham dự hơn 130 vị. Phật tử các nước xa gần và Phật tử địa phương Úc châu về tham dự suốt 3 ngày cũng trên 5000 người. Thầy trò mừng ra nước mắt, mọi công việc đều hoàn mãn, tổng kết chi tiêu cho 3 ngày đại lễ chỉ còn thiếu trên 10 ngàn Úc kim. Tôi và nhà tôi có bàn tính mừng thì mừng cho trót nên lúc đó chúng tôi cúng dường 10 ngàn Úc kim để bù vào chỗ thiếu hụt này.

Để mừng Đại lễ kỷ niệm 20 năm xây dựng ngôi Già Lam Quảng Đức, Phật tử xa gần, các ân nhân cùng Chư Tôn Đức đã cố tâm hoàn thành công trình xây cất Tăng xá cao 2 tầng và Bảo Tháp Tứ Ân cao 4 tầng để làm món quà dâng lên mừng Đại lễ kỷ niệm 20 năm góp phần xiển dương Đạo Pháp tại quê hương thứ hai này.

Nguyện cầu Chư Phật, Chư Bồ Tát gia hộ cho tất cả những người con Phật luôn vững tâm Bồ Đề, kiên cường tiến bước trên đường Đạo, chúng con cũng cầu mong mọi Phật sự xây dựng của Tu Viện Quảng Đức sớm viên thành trong ước nguyện của cộng đồng Phật tử trong và ngoài quốc gia Úc Đại Lợi.


Melbourne, mùa Phật Đản lần thứ 2634

Nguyên Lượng Nguyễn Văn Độ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4720)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5029)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4515)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3747)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7565)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4747)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6178)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5332)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12167)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5364)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]