Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Chùa công quả

19/09/201317:42(Xem: 5249)
Về Chùa công quả

Tu_Vien_Quang_Duc (156)


VỀ CHÙA LÀM CÔNG QUẢ

Thanh Phi

Năm mươi lăm tuổi đời
Trôi qua thật là nhanh
Bốn mươi lăm tuổi lẻ
Tôi mãi bận phân tranh
Với cuộc đời nghiêng ngữa
Mười năm rồi cũng nhanh
Tôi về nương tựa Phật
Mặc cho tháng ngày xanh
Vẫn âm thầm lặng lẽ
Cùng bao nỗi đua tranh
Tôi yên bình niệm Phật
Tìm nơi chốn an lành.

Mới đó mà đã mười năm! Tôi nhớ lại khoảng tháng 8 năm 2000, trong một buổi Trai Tăng tại nhà Mai, em họ tôi, Thầy Tâm Phương đã nói với tôi: “ Cuộc sống của con hiện ra sao ? nếu có thời gian, con phát tâm về Chùa phụ với Ban Trai Soạn lo cho Chư Tôn Đức trong ngày lễ khai móng xây cất chánh điện vào ngày 10 tháng 12 tới”. Tôi đã nhận lời mời của Thầy.

Tôi bắt đầu về Tu Viện Quảng Đức làm công quả từ ngày 9 tháng 12 năm 2000. Những ngày đầu tiên ấy tôi chưa có ý niệm gì về hai chữ “Công Quả”, tôi chỉ làm những việc quý Thầy nhờ làm thế thôi. Sau hai ngày lo việc nấu nướng, khi buổi lễ kết thúc, Sư Cô Hạnh Nguyên đã nói với tôi:“ Chủ nhật hằng tuần cô phát tâm về chùa nấu ăn cho Quý Thầy giùm tôi”. Lời đề nghị này cũng thích hợp vào thời điểm con cái tôi đã trưởng thành không cần phải lo lắng nhiều nên tôi đã nhận lời. Thế là từ đó hàng tuần vào mỗi ngày chủ nhật tôi đều về chùa lo việc nấu nướng cúng dường cho quý Thầy Cô, và nhờ vậy tôi mới thấy biết được những sinh hoạt trong Chùa.

Tôi đã từng xót xa khi những buổi sáng sớm mùa đông lạnh lẽo, cảnh vật chung quanh vẫn còn mờ ảo trong bóng đêm và mọi người có lẽ vẫn còn say ngủ trong chăn êm nệm ấm, Thầy Trụ Trì đã ngồi dưới mái nhà che tạm bên khu nhà Đông để Kệ chuông. Giọng Thầy trầm buồn quyện vào tiếng ngân vang của Đại Hồng Chung nghe sao não nuột quá! Thầy ngồi đó chắc là lạnh lắm? Từ đó tôi biết được thời khóa công phu ở chùa, mỗi sáng Quý Thầy Cô đều thức dậy vào khoảng 4 hay 5 giờ, chia nhau người thì lên chánh điện tụng Lăng Nghiêm, người thì Kệ chuông. Trước kia tôi vẫn nghĩ là quý Thầy ngủ đến 7, 8 giờ mới thức.

Tôi về Chùa trong giai đoạn xây cất nên thấy được Quý Thầy rất là vất vả, bận rộn. Tôi nhớ có một buổi sáng tôi nấu mì cho Quý Thầy ăn, khi vừa nấu xong Thầy chưa kịp ăn thì người thợ (người Úc) kêu Thầy trộn hồ cho họ làm, Thầy làm xong trở vô, tôi nấu tô mì khác vừa định bưng ra thì lại có người kêu Thầy làm việc gì đó, và khi tô mì làm lần thứ ba được đặt lên bàn thì Thầy than mệt quá, ăn chẳng được bao nhiêu; Có hôm tôi nhìn thấy Thầy Nguyện Tạng ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã để khiêng cất những chiếc bàn đã đặt ở ngoài trời trước đó; Có những buổi trưa dưới ánh nắng gay gắt của mùa hè, quý Thầy và các anh vẫn phải phơi mình để làm những công việc cần thiết.

Tôi về Chùa được vài tháng, tận mắt thấy sự vất vả của Quý Thầy, thấy sự tận tụy chịu khó của các anh, các chị về phụ giúp chùa khiến cho tôi cảm động, tôi hiểu được giá trị của hai chữ “công quả”. Và tôi đã nghĩ mình cũng phải nên làm một cái gì đó hữu ích hơn là cứ ngồi nhà tụng kinh niệm Phật.

Nhớ lại mười lăm năm trước khi chồng tôi qua đời được vài ngày, một đêm tôi nằm chiêm bao thấy bị ba bóng đen rượt đuổi, tôi rất sợ hãi chạy đến đập cửa một căn nhà và người ra mở cửa cứu tôi là một Sư Bà. Giật mình tỉnh giấc tôi chợt nghĩ cuộc đời này có quá nhiều đau khổ, muốn thoát được chỉ có con đường tu hành. Với ý niệm đó tôi đã chọn cho mình con đường để đi trong những tháng năm còn lại của cuộc đời. Tuy chọn đường tu hành nhưng tôi không hề có ý nghĩ xuất gia vì trước đó tôi rất ít khi đi chùa, không biết gì nhiều về sinh hoạt ở Chùa. Tôi chỉ biết giảm bớt những liên hệ bên ngoài, ngày hai thời tụng kinh, niệm Phật, lo làm việc để nuôi hai con thế thôi. Sau này đọc kinh sách, tôi hiểu được ba bóng đen trong giấc chiêm bao của tôi chính là Tam độc Tham - Sân - Si. Tôi rất vui vì nghĩ rằng Chư Phật đã gia hộ, dẫn dắt tôi, nên tôi càng quyết tâm hơn với điều mình đã chọn. Tôi đã sống và tu tập âm thầm như vậy cho đến ngày gặp Thầy Trụ Trì kêu về chùa công quả.

Nhắc lại sau hai ngày đầu tiên tôi về Chùa phụ giúp nấu nướng cho lễ khai móng, lúc trở về nhà tắm gội, bất giác tôi phát hiện tóc của tôi bị rụng một cách không bình thường và tiếp theo đó mỗi lần gội đầu là tóc lại rụng từng mãng, có lần nhìn tóc rụng phủ đen dưới chân, tôi đã bật khóc. Chỉ trong vòng ba tháng, tóc tôi rụng gần hết như người hói đầu khiến tôi phải đội tóc giả khi ra ngoài. Bạn bè nói với tôi rằng: “chắc là số của bà phải đi tu rồi đó”. Câu nói đùa nhưng lại khơi dậy trong lòng tôi ý muốn xuất gia. Tôi chợt nhớ lại mấy năm về trước có lần theo mấy người bạn đi hành hương đến Tu Viện Quảng Đức (lúc chưa được xây cất), khi bước vào chánh điện lễ phật tôi đã khóc mà không biết lý do tại sao. Ba năm sau đó tôi theo phái đoàn của Thầy Huyền Diệu đến tu Viện Quảng Đức và một lần nữa nước mắt tôi lại chảy khi bước vào chánh điện lễ Phật. Bây giờ kết hợp với việc bị rụng tóc khi về Chùa làm công quả khiến tôi suy nghĩ không biết mình có duyên gì với Chùa này hay không ? Và có một ngày đứng trước tôn tượng Thế Tôn tôi đã phát nguyện “ Nếu thật sự con có duyên với Tu Viện Quảng Đức này xin Chư Phật gia hộ cho con sớm lành bệnh. Con nguyện từ nay cho đến ngày con đủ duyên xuất gia con sẽ hếtlòng về lo phụ giúp Chùa này” và không biết có phải lời cầu xin của tôi được linh ứng hay không mà tóc của tôi bắt đầu mọc lại như xưa (Bác sĩ đã từng nói tóc tôi khó có thể mọc lại như trước). Từ đó tôi xem Tu Viện Quảng Đức như nhà của mình, làm tất cả những gì mình có thể làm được.

Mười năm làm công quả ở đây đã có biết bao nhiêu chuyện vui buồn, bởi tập thể nào mà không có chuyện phiền não, thị phi? Người xưa từng nói: “Đường Đạo cũng có nhiều chông gai đá nhọn, nếu không thể dẹp bỏ được thì phải tự sắm cho mình một đôi giày và bước đi những bước thật cẩn thận để không bị đau bởi chông gai đá nhọn” lời nói này có lý nhưng không thể là tuyệt đối. Bởi đôi khi có những việc xảy ra cho mình là do nghiệp duyên của mình tạo. Tôi chỉ nhờ vào lời phát nguyện nên dù thế nào tôi vẫn phải luôn giữ vững cái tâm ban đầu của mình. Nhờ vậy mà đến ngày hôm nay tôi mới có thể tận mắt chứng kiến sự thành tựu của công trình xây dựng Tu Viện Quảng Đức.

Có được sự thành tựu này phải nói là nhờ công đức, phước báu và công khó của hai Thầy Chánh và Phó Trụ Trì. Có lần nói chuyện với Sư Cô Nguyên Khai, tôi đã nghe Cô tâm sự: “Cúng dường cho vị nào thì tiếc chứ cúng cho Thầy Tâm Phương thì không, bởi Thầy có một mà làm tới hai ba”. Quả thật đúngnhư vậy, mười năm qua theo cái thấy biết của tôi, đôi lúc Chùa không có đủ tiền trả tiền bill, Thầy phải hỏi mượn nơi này, nơi khác, nhưng công trình xây dựng vẫn được tiếp tục. Quý Thầy đã phải cưu mang bao nhiêu điều lo lắng, chịu bao nhiêu lời trách móc cũng chỉ là để có được sự thành tựu ngày hôm nay, điều mà tôi cũng không thể ngờ được. Thân mang bệnh, nhưng Thầy Trụ Trì đã không thể vì mình mà bỏ dở tâm nguyện, tạo dựng cơ sở cho thế hệ mai sau có nơi tu tập để Phật Pháp được trường tồn. Thầy Phó Trụ Trì Nguyên Tạng thường nói trong các buổi giảng chủ nhật rằng: “ chúng ta là thế hệ đầu tiên trong việc đặt nền tảng cho Phật giáo trên xứ Úc này, nên chúng ta phải hy sinh, phải chịu thiệt thòi để có cơ sở vững chắc cho thế hệ con cháu của chúng ta sau này có nơi chốn tu tập, hành trì giáo Pháp Phật”.

Tâm nguyện của Quý Thầy ngẫm lại cũng giống như chúng ta. Ngoài đời khi chúng ta mới đến Úc, chúng ta cũng đã phải bương chải chịu hy sinh đủ điều cốt để tạo dựng nhà cửa, tiện nghi cho con cháu chúng ta bây giờ được thảnh thơi chuyên tâm học hành và tự tạo dựng thêm những cái gì tốt đẹp hơn cho chúng. Mười năm, hai mươi năm nữa chúng ta cũng có thể ngồi yên niệm Phật, mỉm cười nhìn con cháu chúng ta thong dong đến Chùa tu tập, học hỏi Phật pháp chứ không phải vất vả như chúng ta. Lúc ấy ta mới thấy được sự hy sinh cao cả của quý Thầy, và của chính chúng ta hôm nay là chánh đáng.

Tôi rất vui bởi duyên lành nào đó đã xui khiến tôi chọn nơi này để tập bước từng bước một trên con đường tu tập của mình. Mười năm qua tuy bận rộn nhưng tôi đã học được rất nhiều điều. Tất cả những chuyện vui buồn đều là những bài học quý giá tôi luyện cho bản thân tôi.

Xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô đã tạo cho con những cơ hội được làm việc và chỉ dạy để con học hỏi thêm. Xin cảm ơn các bạn đồng đạo và các con tôi đã thông cảm và hỗ trợ để tôi hoàn thành tâm nguyện hộ trì Tam Bảo. Con cũng trân quý những chướng duyên trong đời sống này, bởi qua đó con mới có dịp suy gẫm về lý nhân quả, để từng bước thực tập hạnh nhẫn nhục, để tâm mình được bình lặng hơn. Hy vọng một ngày nào đó không xa, đá tuy không thể mềm nhưng chân con đủ cứng để không bị đau đớn bởi sự va chạm, để vững bước trên đường tìm đến bến bờ giải thoát, xin mười phương Chư Phật từ bi gia hộ cho con.

Hôm nào nghe Thầy giảng
Lời Phật dạy năm xưa
Muốn thoát lìa sanh tử
Phải dứt nghiệp duyên thừa
Nên lòng con hoan hỷ
Chấp nhận mọi lỗi xưa
Được đáp trả kiếp này
Rồi từ nay xin chừa
Để đời sau nhẹ nhỏm
kết duyên cùng Đại Thừa
Tu hành luôn tinh tấn
Tìm lần về nhà xưa.

Melbourne, Xuân Canh Dần 2010

Đệ tử Thanh Phi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2010(Xem: 10236)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
30/09/2010(Xem: 7408)
Thí dụ là một thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ dùng một hình ảnh cụ thể hay một trường hợp điển hình để minh họa cho một vấn đề mới. Trong các thuyết giảng của Đức Phật, Ngài luôn có những hình ảnh thí dụ để minh họa cho giáo lý và pháp môn tu tập. Rõ ràng việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật này làm cho nội dung thuyết giảng được giải bày cụ thể, trong sáng, súc tích và giúp cho người học đạo nhận thức được vấn đề một cách trực tiếp.
30/09/2010(Xem: 7879)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên, một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo. Thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là “y như sự thật”: Lý thuyết, phương pháp, kết quả đều hợp lý, đều như thật.
29/09/2010(Xem: 7702)
Âm nhạc Phật giáo có bước chuyển biến mới trong những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, khi nền âm nhạc Tây phương thâm nhập và tác động vào nền âm nhạc truyền thống...
29/09/2010(Xem: 6946)
Cà sa là biểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục. Đức khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục trong Phật giáo liên hệ mật thiết với tinh thần bình đẳng...
29/09/2010(Xem: 7583)
Đức Phật đã hằng dạy cho chúng ta rằng: "Vạn pháp giai không; nhưng nhân quả bất không". Nếu nhân tạo ra tốt thì chắc chắn quả kia không thể xấu được.
29/09/2010(Xem: 7307)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
28/09/2010(Xem: 5751)
Sắc là các màu sắc, hình dáng mà mắt tiếp xúc nhìn thấy mọi hình ảnh sự vật rồi sinh tâm phân biệt đẹp xấu, từ đó muốn chiếm hữu, nhất là lòng ham muốn về nam sắc, nữ sắc là đầu mối dẫn chúng sinh luân hồi trong sinh tử trong vô số kiếp. Từ ngàn xưa cho đến nay tình ái vẫn là thứ dễ làm cho con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi, do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách của một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người càng ngày làm mất đi giá trị đạo đức do không tin sâu nhân quả, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau.
28/09/2010(Xem: 11604)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
27/09/2010(Xem: 6039)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567