Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ông hoàng tử Hạnh Phúc

02/09/201308:40(Xem: 9400)
Ông hoàng tử Hạnh Phúc

Sau một tuần tham dự khóa tu do Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai tổ chức tại Brock University, Toronto (11-16/8/2013), Alice Klein – chủ bút của tuần báo Now Magazine, một trong những tờ báo lớn nhất Canada – đã chia sẻ những cảm nhận và khám phá thú vị của mình về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, về tình thương và hạnh phúc chân thực qua bài viết “The Prince of Happiness” (Ông hoàng tử Hạnh Phúc). Dưới đây là phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh.

Tình thương và hạnh phúc chân thực? Phải chăng những điều này chỉ có trong chuyện cổ tích mà thôi? Không, hoàn toàn không phải vậy - đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, một vị thầy 87 tuổi và cũng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội can trường, người đang ngồi thật an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng kia.

Tôi đang sắp sửa nhận được từ Thầy những lời khuyên giản dị và thiết thực làm thế nào để có được tình thương và hạnh phúc chân thực. Nhưng ngay lúc này đây, tôi thực sự không hạnh phúc chút nào. Tôi hết sức mệt mỏi và phải thú thật là đầu óc tôi lúc này chỉ toàn nghĩ đến chuyện trục trặc vừa mới xảy ra trong gia đình tôi. Tất nhiên là chuyện này xảy ra trước khi khóa tu tại đại học Brock bắt đầu.

Khi hào hứng quyết định tham gia khóa tu sáu ngày để học hỏi từ vị thầy được coi là một trong số ít những nhân vật huyền thoại còn sống về phong trào bất bạo động trên thế giới, tôi không hề tính đến chuyện phải thức dậy từ lúc 5 giờ rưỡi sáng và ăn toàn thức ăn chay được phục vụ trong căn-tin của trường đại học. Tôi cũng không hình dung rằng mình sẽ ngồi hàng giờ liền trong im lặng với 1300 người. Cả một gian phòng lớn - nguyên là phòng thể dục của trường đại học đều chật kín người, thật là ấn tượng. Trong khóa tu, mọi người đều thực tập im lặng hùng tráng từ tối hôm trước cho đến sau giờ ăn trưa của ngày hôm sau, cũng như trong suốt các bữa ăn.

Thực lòng khi đến khóa tu, tôi chỉ tò mò muốn được trực tiếp cảm nhận sự có mặt sống động của vị thầy nổi tiếng thứ hai thế giới trong lĩnh vực Phật giáo. Nhưng không hiểu vì nhân duyên gì, hay là vì thấu hiểu được tâm lý rất “con người” của tôi nên hôm đó Thầy đã dạy cho tôi làm thế nào để có thể có mặt thực sự trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, chỉ khi đó tôi mới có thể thực sự cảm nhận được sự có mặt của người khác.

Cũng như Đức Đạt Lai Lạt Ma, lập trường tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc của Thầy Nhất Hạnh được hun đúc và rèn giũa trong lò lửa chiến tranh với bạo động chính trị, đàn áp và biết bao đau thương không thể nói thành lời. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Thầy là người sáng lập phong trào “đạo Bụt dấn thân” (“Engaged Buddhism”), tạo cảm hứng cho hàng ngàn xuất sĩ trong cả nước đi về các vùng nông thôn để giúp xây dựng lại những làng quê bị chiến tranh tàn phá và giúp những người dân đang sống trong cảnh nghèo đói. Tất cả những người đi theo phong trào này đều cam kết kêu gọi hòa bình bằng phương pháp bất bạo động. Và sứ mệnh của Thầy là đi ra nước ngoài để kêu gọi hòa bình cho Việt Nam và từ đó phong trào tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc đã lan rộng ra các quốc gia và vẫn còn đang được tiếp tục cho đến ngày hôm nay.

Năm 1966, sau hai thập niên dấn thân cho phong trào hoạt động xã hội, mở ra một hướng đi mới cho thế hệ trẻ lúc bấy giờ đang bị bế tắc và gặp nhiều thách thức, Thầy Nhất Hạnh đã bị chính quyền Việt Nam ngăn cấm không được trở về quê hương. Mặc dù vậy, Thầy vẫn không ngừng nỗ lực vận động người dân Mỹ cũng như người dân khắp nơi trên thế giới ủng hộ việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì những nỗ lực đó, Thầy đã được Mục sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hòa bình. Mục sư Luther King đã hoàn toàn cam kết đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam sau cuộc nói chuyện với Thầy Nhất Hạnh – vị Hoàng tử Hạnh Phúc đang ngồi an nhiên trước mặt tôi đây.

Thầy không hề để lộ tuổi tác qua dáng vẻ của mình. Trong chiếc áo tràng nâu, Thầy hơi có vẻ giống nhân vật Spock trong bộ phim nổi tiếng Star Trek, với cặp lông mày rậm và đôi mắt sâu thẳm luôn có tia sáng lấp lánh. Thầy đang chuẩn bị giảng về cái mà Thầy gọi là nghệ thuật khổ đau. Và dĩ nhiên là tôi sẽ phải bận rộn với trái tim đang tan vỡ của mình.

Có lẽ bất kỳ ai dù chỉ mới đọc một xíu thôi trong hơn 80 đầu sách của Thầy - chưa kể đến các CD, video và những thứ khác – cũng biết rằng những gì Thầy Nhất Hạnh dạy đều bắt đầu bằng một cách rất đơn giản, đó là theo dõi hơi thở vào. Thầy nói rằng chỉ cần một hơi thở vào là ta có thể trở về và tiếp xúc với một sự thật mầu nhiệm là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc.

Tôi thử làm theo lời Thầy dạy, và quả nhiên hơi thở vào giúp tôi kết nối với thân thể của mình ngay lập tức. Wow! Tôi thật sự cảm nhận được điều này! Tôi thở vào và lần này tôi theo sát hơi thở xuống dưới bụng (trong khi thở vào tôi nhủ thầm “Con đã về”), rồi tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối, trọn vẹn và thoải mái (đồng thời nhủ thầm câu “Con đã tới”). Thầy gọi đó là hơi thở có ý thức, hay hơi thở chánh niệm. Mặc dù trái tim khổ đau của tôi vẫn bắt buộc tôi phải dành gần như toàn bộ tâm ý cho nó, nhưng phải thừa nhận rằng phương pháp làm cho thân tâm hợp nhất này thật là thâm sâu và có hiệu quả ngay tức thì.

Trong khi theo dõi hơi thở từ đầu cho đến cuối, tôi đã đi ra khỏi những ồn ào huyên náo trong đầu và bước sang một trạng thái tỉnh thức khác lạ. Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là giây phút hiện tại. Tôi không thể nào tin được rằng sau hàng chục năm nghiên cứu và tìm tòi, tôi lại khám phá ra được một cách kết nối thân tâm nhanh chóng và giản dị đến thế.

“Nghệ thuật khổ đau” cũng đòi hỏi ta phải chế tác năng lượng chánh niệm bằng hơi thở ý thức. “Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều khổ đau”, Thầy nói một cách nhẹ nhàng. “Và với năng lượng chánh niệm, ta có thể trở về với chính mình và ta có thể nhận diện được khổ đau đang có mặt trong mình”. Đúng vậy, tôi đã làm được bước đầu tiên rồi!

“Nhiều người trong chúng ta thường sợ phải đối diện và bị nhấn chìm trong khổ đau của chính mình, vì vậy mà ta thường có xu hướng trốn chạy hoặc khỏa lấp nỗi cô đơn, buồn giận, sợ hãi hay tuyệt vọng trong lòng mình. Chúng ta làm mọi cách để bận rộn, để không phải trở về với chính mình và tiếp xúc với niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Nhưng với năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để trở về nhà, trở về với chính mình. Ta có thể ôm ấp niềm đau của mình với tất cả sự dịu dàng như một người mẹ đang ôm đứa con của mình trong lòng.”

Được rồi, vậy thì tôi sẽ cố gắng thở và nhẹ nhàng ôm ấp niềm đau trong tôi như ôm một em bé. “Chúng ta mang theo cả những khổ đau của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên trong ta” Thầy giải thích thêm. Trong giây phút này, tôi thực sự cảm nhận được sự có mặt rất rõ ràng của tổ tiên ở trong tôi và tôi muốn dừng lại cái vòng luẩn quẩn mà tôi đang mắc kẹt vào.

Tôi càng có động lực hơn khi nghe Thầy dạy: “Khi ôm ấp khổ đau trong lòng mình, chúng ta sẽ đi đến một cái thấy về bản chất và gốc rễ của khổ đau đó. Và khi đã hiểu được gốc rễ của khổ đau rồi thì tình thương và lòng từ bi trong ta sẽ phát khởi một cách rất tự nhiên. Từ bi là một loại năng lượng có khả năng chữa trị cho chúng ta và cho cả thế giới này.” Tôi đã thực sự thực tập đúng theo lời Thầy dạy và phải mất khoảng 24 giờ. Tôi không hề nhận ra rằng cảm giác đau khổ trong lòng tôi đã tan biến, tôi chỉ thấy mình bỗng nhiên nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều. Tuy nhiên, chìa khóa của thành công nằm ở chỗ: nếu anh chưa thực tập được đến mức không còn muốn trừng phạt bất kỳ ai - những người đã làm anh khổ đau - thì anh vẫn chưa thực sự thành công. Nếu anh chỉ thực tập nửa vời thì không bao giờ có thể thành công được.

Phương pháp bất bạo động của Thầy Nhất Hạnh có vẻ quá khác lạ so với cách tư duy thông thường, vì vậy mà nó làm cho ta khó chấp nhận. Nhưng bù lại ta sẽ nhận được những phần thưởng thật xứng đáng, đó là tự do, hạnh phúc, tình thương chân thực và Niết bàn. Tất cả những điều này đều chờ đợi ta ở địa chỉ: bây giờ và ở đây, đó là lời của Thầy Nhất Hạnh. Thầy nói rằng: “Không có con đường đi đến Niết bàn, Niết bàn chính là con đường”. Chỉ đến khi kết thúc khóa tu tôi mới hiểu ra vì sao sự có mặt của Thầy có thể gây xúc động và ảnh hưởng lớn với tôi như vậy. Đó là vì Thầy luôn an trú trong giây phút hiện tại, Thầy luôn ở trong Niết bàn.

Alice Klein


Ng
ười gởi: Minh Quang Kim Tran

Nguồn: langmai.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5559)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5473)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6888)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4271)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9086)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5426)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5050)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5641)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6143)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5160)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]