Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cô thân vạn lý du

30/08/201307:40(Xem: 11464)
Cô thân vạn lý du
CÔ THÂN VẠN LÝ DU ...

Tâm Dũng

cothanvanly001Tâm Tình Dẩn nhập

Cuộc đời ngày càng phức tạp, học Phật cũng như thế.

Người học Phật ngày nay, trong thời buổi kinh tế thị trường, trăm hoa đua nở, tài liệu, kinh điển Phật Pháp, phương tiện thông tin đầy đủ và hữu hiệu, nên việc tìm hiểu, thực hành giáo Pháp, nếu muốn, thì sẽ quá dể dàng.Nhưng mà, cuộc đời trớ trêu thay, đất màu mở thì nhiều cỏ, lắm hoa thì nhiều sâu, thế nên, cũng chính vì sự phong phú đó, mà pháp Phật ngày nay, người học không khéo, không cẩn thận sẽ dể dàng lạc hướng trong rừng ngôn ngữ, đa dạng và phức tạp, trừu tượng và mơ hồ, nhằm diển tả thực tại mà lại xa rời thực tại và càng ngày càng ô nhiễm.

Bài viết này chỉ là những dòng“tâm sự”, tâm sự nhưng không than van, mà“nhẹ nhàng” như tiếng chuông chiều mà thỉnh thoảng ta nghe được văng vẵng đâu đó trên bước đường học Đạo,để nhắc nhở cho chính mình và chia sẽ với những người bạn chưa quen, nhưng có cùng chung một “tâm tình”,và nhất là, để thấy rằng, mình, chúng mình, sẽ không quá “cô đơn” như mình tưởng.

cothanvanly002Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du ...”

Hai câu đó mở đầu cho cuộc đời khất sỉ, từ đó, cuộc sống bình thường, thay đổi, mở ra một ngả rẻ có chọn lựa và quyết định. Ta thử nhớ lại cảnh tượng người trai trẻ Tất Đạt Đa, một đêm, đã nhẹ nhàng, vén màn, nhìn vợ, hôn con, lần cuối, rồi lặng lẻ ra đi, một mình, trơ trọi,hành trang vỏn vẹn chỉ có“khối nghi tình” thôi thúc mạnh mẽ, để từ đó băng mình trên con đường ... “cô thân vạn lý du” để tìm cầu giải đáp.

Cuộc ra đi dấn thân nào cũng nhiều đắn đo trăn trở, và “hào hùng” nước mắt, ngày xưa cũng như ngày nay, cùng là sự ra đi, nhưng mức độ giá trị sẽ tùy thuộc ở sự chọn lựa, tự nguyện hay do hoàn cảnh bức bách, vì chính điều đó sẽ là nhân tố quyết định cho thành quả sau này.

Người tu học Phật mình nên suy nghĩ nhiều về nguyên nhân “ra đi” cũa người trai trẻ đó, hãy suy nghĩ thật nhiều và hãy “hành thâm” về điều đó, nó sẽ giúp cho mình rất nhiều trên con đường ... “vạn lý du” cũa mình. Hãy chính mình suy tư về điều đó, chính mình, không dựa vào bất cứ ai khác, không căn cứ trên những mẩu chuyện thần thoại truyền thuyết nào cả, vì nó, phần lớn, đã thần thánh hóa và tô điểm màu mè làm nhòe đi hình ảnh“ra đi” bi tráng đó, và như thế sẽ làm cho mình mù mờ không hiểu được đâu là sự thật,đâu là nguyên do chính yếu, mạnh mẽ đến độ có thể thúc đẩy một hoàng tử buông bỏ tất cả để dấn thân vào con đường tầm đạo gian khổ.

cothanvanly003Lên non tìm hạt Bồ Đề

Ngày nay, cũng có rất nhiều người, có già có trẻ, nam hay nữ, một mình hay hai mình, cùng “rủ nhau”đi theo bước chân tầm đạo cũa người xưa, sự “ra đi” tuy không “âm thầm” và “bi tráng” như thế, nhưng, dù sao cũng dáng dấp đáng “yêu” và đáng ... nghiêng mình kính phục. Những người ngày nay, như Thiện Bửu, Ngọc hiền, Chơn Minh, Tâm Khiết; những John Doe, Jane Roe; những Jean Pierre, những Joe, Jannete,... họ ở cùng khắp, đã lần lượt ... bỏ trường bỏ sở bỏ người yêu mà “ra đi”, họ tìm đến những nơi xa xôi, mà địa danh nay trở thành quen thuộc: Dharamshala, Wat Pah Nanachat, Tassajara, Ukiah, Village des pruniers, North Folk, Bonsal, Escondido; Dalat, Long Thành, Suối Tiên, Yên Tử, Tây Thiên...

Các “thiện tài đồng tử” ngày này, dò dẩm, tìm tòi để được đến tận nơi, gặp gở và học hỏi với những vị Thầy, vị Sư, với những Roshi, Rinpoche, Swami, những Ajahn, Bhante, Sayadaw ... Họ không phải là những người hành hương bình thường theo chân một vài vị Thầy đi đây đi đó, thăm viếng những di tích hoang tàn còn sót lại, những người này, đi đến và ở lại, và nếu may mắn(...cũng có thể là không may mắn),họ sẽ được thay tên đổi họ,sẽ có những danh xưng rất “ngoại”, mà khi tiếp xúc,người ta sẽ không biết ... ai là ai,họ là người nước nào, nam hay nữ, chẳng hạn như có người với cái pháp hiệu rất là Ấn Độ mà khi biết ra thì lại là chàng Gary cao bồi Texas! hay khi nghe cái tên cũa một người rất là Việt và Nam, mà thực ra lại là dân “phớt tỉnh ăng lê” và rất là nữ! đại khái là như thế. Về hình tướng thì chiếc áo màu lam cư sỉ ngày nào nay sẽ đổi thành các áo choàng màu nâu, màu vàng, màu đen Nhật Bản, hay màu huyết dụ Tây Tạng...tùy theo trường phái tu tập, mà sau những tháng ngày “thử thách”, họ đã tìm được nơi an ổn, tạm thời hay dài hạn,với niềm hy vọng nơi đó sẽ có thể đáp ứng được những thao thức tìm cầu của mình. Nhưng phần lớn, thì không được “may mắn” như vậy,và sau những đêm dài “trăn trở”, họ lại phải “từ giả và ra đi”, nhiều lần và nhiều lần như thế nữa, ... nhưng chắc chắn là không hơn con số 55 lần cũa Thiện Tài Đồng Tử ngày xưa!

Sự hăm hở ban đầu, nguyên nhân thúc đẩy “ra đi” đó, dù cao quý hay bình thường thì cũng là điều đáng ca ngợi và khuyến khích. Nhưng không phải ai cũng có thể thẳng tiến “phăng phăng” trên đường đạo,hoàn cảnh, nơi chốn, bạn bè “đồng tu”, những khó khăn về “kỷ thuật”, phương pháp tu tập, cách thức hành đạo, và ... mục tiêu “Phật sự”... sẽ là những nhân tố đưa đến cho sự “từ giả và ra đi” đó. Nhưng điều này cũng nên “an ủi”(!)vì đó làmột “diển biến bình thường” mà chính Đức Phật cũng đã trải qua. Thời nào cũng thế và lúc nào cũng vậy.

Thử nhìn lại cái “vòng luân hồi” cũa ... ra đi, ở lại, từ giả rồi lại ra đi, thì người ta thấy rằng, thực ra, rất khó mà biết được ai là người “may mắn” và ai là người “kém may mắn”. Câu chuyện khúc gổ và dòng sông trong kinh Phật cho biết: khúc gổ mà không bị người vớt, không tấp bờ bên này bên kia, không mục nát ... thì nó sẽ “trôi thẳng băng” ra đại dương. Nhưng “tình thế” sẽ không đơn giản như vậy, trong thực tế, người ta cũng có thể hiểu được rằng, sự “ở lại” có thể là “tấp bờ”, dù là bờ bên này (chánh) hay bờ bên kia (tà), khi đó, khúc gổ đó có khi sẽ trở thành hữu ích, nhưng cũng có thể nó sẽ mục nát vì sâu bọ, tiền tài, danh lợi, sự nghiệp, chức vị ...Nhưng mà, than ôi, người từ giã “vứt áo ra đi” thì cơ hội cũng không hay ho gì, họ rất dể dàng bị “vớt gọn”! Thấy thế,người “đồng tu”mình, cách tốt nhất sẽ là“nín thinh”, lặng mình trong“im lặng sấm sét”! Vì rằng những cái lắc đầu chán nản hay chê bai, kinh rẻ đều là quá đáng.

cothanvanly004Mở ra tam tạng kinh

Ta ngồi đọc một mình

Trăng sao soi từng chử

Giữa đất trời lặng thinh.” (1)

Từ ngữ“một mình” có nhiều nghĩa, về mặt hình tướng thì là một thân một mình, cô thân độc mã, trơ trọi, là lang thang, “homeless”, thân “vô sở trụ”...; nhưng thực ra “tình thế” cũng không đến đổi “cô đơn” và “tệ” như vậy, dù sao, một mình nhưng chung quanh cũng còn có ...trăng sao và trời đất, và nhất là tự do! Nhưng, “một mình” ở đây, quan trọng hơn, nó có ý nghĩa nặng về mặt tâm lý, đó là sự buông bỏ, một trạng thái không còn bám víu vào một thứ gì khác.

Trong kinh có nói: buông! buông! buông cho đến không còn gì để buông, buông cho đến không còn cả ... “người buông” và “cái để buông”, thì khi đó là“xả” là “không”, là “vô nhất vật”, là ...“không là gì ráo” !“ Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới ...” (2), là người trong tâm sẽ không còn vương víu những bóng dáng thấm thoát của một thời quá khứ “hào hùng” ngày nào, và giờ đây, trong lòng cũng không còn “ôm ấp” những “mộng tưởng Niết Bàn”, những “lý tưởng cao đẹp” nào để theo đuổi, mong cầu đạt đến trong tương lai.

Trong Majjhima Nikaya, khi có người thỉnh cầu Đức Phật tóm tắt toàn bộ giáo pháp của Ngài ngắn gọn trong một câu, thì Ngài nói:"Sabbe dhamma nalam abhinivesaya -Nothing whatsoever should be clung to- không bám víu vào bất cứ điều gì”.Và Ngài còn nhấn mạnh rằng, bất cứ ai, hể nghe được câu nói đó sẽ là người đã nghe được toàn bộ giáo pháp; bất cứ ai hể đem câu nói đó ra thực hành thì là đã thực hành toàn bộ giáp pháp; và bất cứ ai, hể có được thành quả do thực hành câu nói đó, thì là đã đạt được thành quả của toàn bộ Phật pháp. (3)

“Trụ”, an định trong một trạng thái, dù an lạc thực sự hay ảo tưởng, cũng có thể là “vùng nước đọng”; tôn sùng, “thần thánh hóa” một vị Thầy, dù đã giác ngộ hay nghĩ là giác ngộ, sẽ là một bám víu; cố chấp vào một pháp môn đã là sự vướng mắc; tinh tấn hành trì một phương pháp tu tập, ngày qua ngày cũng dể trở thành máy móc và đưa đến nhàm chán ...và với “ý chí cố gắng khắc phục” vượt thắng nhàm chán đó, thì kết quả lại làm cho tâm tánh dể dàng trở nên không còn linh hoạt nhạy cảm, thờ ơ lãnh đạm trước hạnh phúc khổ đau của người khác, nhưng quan trọng hơn hết, nó sẽ làm lớn mạnh thêm bản ngã, vì sẽ rất hãnh diện rằng, “TA” đã thắng được “ta”! Điều này thật là “nguy hiểm!

Phương cách hành trì tu tập nhằm “đối trị”, “diệt trừ”, đã “phân ranh” năng và sở, là “đối đãi” là không phải “pháp môn bất nhị”, và đối với người trong cuộc, nó là một trường chiến đấu gian khổ, mà kết quả sẽ là,dù thành công hay thất bại, thì... “ta vẫn là ta cũa thuở nào”, con đường vạn lý cứ thế quanh quẩn quẩn quanh! Thế mới hay, sự “ra đi” đã khó, nhưng buông bỏ còn khó hơn nhiều, vì ra đi, dù sao cũng còn có chổ để quay về, “con đường sạn đạo” năm xưa còn chưa đứt, dùrằng sự trở về đó có đôi chút ngậm ngùi như người chiến binh thất bại, và có thơ rằng: “Ta về một bóng trên đường lớn, thơ chẳng ai đề vạt áo phai...” (4),trong khi đó, buông ra là mất, mất tiêu! Không còn manh giáp, không bao giờ còn dịp lấy lại, nên rỏ ràng là sợ hải.

Người tu mà “quẳng kinh cởi áo cà sa”, thì có nước là ...“hóa làm ngọn gió thổi qua ba đào” (5). Buông bỏ khiến mình chơi vơi không còn chỗ bám víu, buông bỏ một hình tướng, một sỡ hữu, tiền tài, danh lợi, sự nghiệp, buông bỏ một quan điểm, một cơ sở lý luận, một thói quen ngàn đời...là điều mà ai cũng phải hãi hùng. Trong khi đó bám víu thì an ổn, sự nương tựa nào cũng cho ta một cảm giác ấm áp và an lòng, sự “kiên trì tinh tấn” với ý chí cố chấp không hề lay chuyển khiến lòng cảm thấy chắn chắc, vững vàng ... và như thế cứ tưởng là mình đang đi ... đúng pháp,nhưng mà than ôi, nào hay...!

Ôi, trớ trêu thay cuộc đời, “có” không được mà “không” lại càng không được, cái “không được gì” là cái “có được” cũa người tu. Nhưng có người lại hỏi, làm sao mà “có được” cái “không được gì” đó? thì ra cũng ... lại càng “không có được” cái gì cả! Có như thế mới là “khổ đế” chứ!

Cẩn trọng

Tâm Dũng

Chú thích:

1. “Tụng Kinh”, Thơ Huyền Không, Thích Mãn Giác.

2. http://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-nguoi-biet-song-mot-minh

3. 'Heart-wood from the Bo Tree' by Buddhadasa, page 8-9.

4. “Ta Về”, Thơ Tô Thùy Yên.

5. xin lổi, không nhớ là thơ cũa Thầy nào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4984)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5216)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 7999)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6140)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5621)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4264)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9163)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5725)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7033)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5741)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]