Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lợi ích của Hạnh Bố Thí

22/08/201317:46(Xem: 8533)
Lợi ích của Hạnh Bố Thí

hoa_sen (41)

Lợi ích của Hạnh Bố Thí



Với Tuệ giác và lòng Từ bi của Đức Phật, thấy chúng sanh ở cõi Ta bà, đang đắm nhiễm trong khổ đau, nên Ngài đã thị hiện xuống trần, vào cung vua, nhưng rồi biết rõ rằng do THAM ÁI với NGŨ DỤC mà con người mãi trầm luân, đau khổ. Do vậy Ngài đã từ bỏ ngai vàng, danh lợi, để vào rừng sâu, với nhiều năm đi tham cầu học đạo và sáu năm khổ hạnh, tìm kiếm con đường thoát khổ cho chúng sinh, cũng như khi còn nằm trong bụng mẹ Ngài đã khiến cho Hoàng Hậu Ma Gia phát tâm mở kho BỐ THÍ cho dân nghèo. Đó là Ngài đã thực hành những hạnh NỘI và NGOẠI TÀI THÍ, nhờ hạnh BUÔNG XẢ nầy đã giúp cho Ngài hanh thông trên con đường tìm ra ánh đạo, rồi suốt 49 năm ròng rã Ngài đã lội bộ khắp Ấn Độ để hóa duyên, dạy cho mọi người tu, tức là Ngài thực hành hạnh PHÁP THÍ, đây là pháp tu thù thắng nhất, vì có thể giúp cho nhiều người, nhiều nơi, nhiều đời, chuyển hóa được khổ đau thành ra Niết bàn, an lạc, trong đó Ngài đã chỉ rõ chân lý của cuộc đời, giúp cho nhiều chúng sanh biết tu, hết hoang mang, lo sợ và rồi thoát khổ, tức là Ngài đã thực hành VÔ UÝ THÍ. Phước Huệ song tu, do vậy Phước Đức của Ngài tròn đầy, truyền mãi, gần ba ngàn năm, cho đến ngày nay vẫn còn sung mãn.

Những chứng ngộ và trải nghiệm được, Ngài đã truyền lại cho chúng đệ tử, những pháp tu và lợi ích của hạnh BỐ THÍ. Trong đó có hai pháp tu mà Ngài cho là quan trọng, hay giảng dạy cho đệ tử thực hành hạnh Bồ Tát là: Lục Độ Ba La Mật ( Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) và Tứ Nhiếp Pháp ( Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), cả hai pháp tu nầy, pháp Bố Thí đều đứng vào hàng đầu.

BỐ THÍ là ban cho một cách rộng rãi, cho ra mà không bao giờ muốn nhận lại, Bố thí mà không biết mình bố thí, đó mới chính thật là Bố Thí. Đời là khổ, không, vô thường, vô ngã, bốn pháp ấn nầy là chân lý đã có mặt xuyên suốt trong các kinh điễn của Đức Phật và cũng là thực tế hiển nhiên của cuộc đời. Có thân, có của, có danh, có lợi... là có khổ, Như vậy những ai muốn thoát khổ thì phải biết BỐ THÍ, ai muốn tiến đạo cũng phải BỐ THÍ vì biết buông xả những thứ nặng nề, phiền trược, mới có thể nhẹ nhàng vươn lên cao và vào được cửa đạo, điều đặc biệt, khi biết BỐ THÍ là đã có được lòng Từ, Bi, niềm Hỷ lạc và sự Xả ly, bốn Tâm Vô Lượng đều có mặt. 

Không đợi đến khi nào có tài sản, của cải thật nhiều, chúng ta mới bố thí được, mà BỐ THÍ về TINH THẦN mới thật là quan trọng, đó là NỘI TÀI THÍ tức bố thí bằng tấm lòng chân thật, bằng sự hy sinh kham nhẫn của mình, mới có được công đức. Tâm ta không cố chấp hay dính mắc những điều như ý hoặc bất như ý, luôn hoan hỷ thứ tha, mắt chỉ cần có cái nhìn trìu mến thân thương, tai chịu khó nghe những lời tâm sự, lưỡi biết có lời khen điều hay, miệng nở một nụ cười, một lời chia sẻ, an ủi, vỗ về, khuyên răn đến vớí những người đang khổ, hay một hành động, bảo bọc, bao dung những người đang gặp nạn, dắt người già yếu, trẻ em, tật nguyền qua nơi nguy hiễm, hoặc vui theo những việc làm thiện ích, thành công của người, mà không một chút kể công, là ta đã thực hành hạnh bố thí ba la mật. BỐ THÍ là một việc làm nhẹ nhàng nhưng rất cao đẹp và nhiều lợi ích, giúp ta từng bước xả bỏ được Tâm THAM, điều kiện quan trọng để không còn Tâm SÂN và như thế sẽ được sáng suốt, dứt luôn Tâm SI. Ba độc không còn, sẽ hanh thông trên con đường giải thoát, giác ngộ.

Đức Phật nhờ BUÔNG XẢ tất cả, nên mới được tất cả. Gần ba ngàn năm rồi, mà sự nghiệp của Ngài vẫn truyền lưu mãi mãi, nhân loại và chúng sanh khắp chốn cũng rất nhiều lợi lạc đều nương nhờ vào sự Buông Xả của Ngài. Khi hai bàn tay nắm lại, ta sẽ không ôm thêm được gì, nhưng khi hai bàn tay buông ra, vòng tay mở rộng, ta sẽ ôm được rất nhiều.

Bàn tay mở rộng chừng nào

Là ôm vũ trụ gôm vào bấy nhiêu

Khi ta thực hành hạnh Bố Thí là đã gieo nhân giàu, đang và sẽ mang hạnh phúc đến cho ta và cho người, vì người có đạo đức, rất hoan hỷ khi thấy người khác hạnh phúc, cũng như sẽ gặt hái được những quả giàu sang sung sướng và có thể chứng thánh quả, nếu biết hướng nhân bố thí nầy đến quả Vô thượng Bồ đề. 

“Sướng gì hơn sướng làm lành.
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu” hay

“ Tất cà niềm vui có được trên đời
Đều muốn mang an lạc cho người khác ( sống vị tha )

Tất cả khổ đau có ra trên đời 
Đều do muốn hạnh phúc cho riêng mình”( sống ích kỷ
là như vậy đấy.

Tài sản là của năm nhà (lửa cháy, nước trôi, quan + trộm đoạt lấy, vợ, chồng, con phá, bệnh hoạn), chúng ta không giử mãi được đâu. Cỗ nhân có dạy “ Người ăn thì còn, mình ăn thì hết” Có mở lòng rộng lớn thì mới dung chứa hết được những phước đức Trời đất ban cho. Có ăn uống vào thì phải chịu khó thải ra, bèn không thì phải đi bệnh viện, cũng vậy có thu vào thì phải nghĩ đến việc cho ra một cách hữu ích, bèn không thì nó cũng xé bọc mà ra, lúc đó sẽ có nhiều đau khổ. Mình sống đây là nương nhờ ở mọi người, vậy ta PHẢI CÓ QUAN ĐIỂM PHỤC VỤ, chứ đừng nên có QUAN ĐIỂM HƯỞNG THỤ mà mắc nợ đời, hãy buông ra giúp ích xã hội, cho tài sản được lưu thông, có cho ra mới hút được cái khác vào và sẽ sinh sôi nẩy nở ra thêm, bèn nếu không, thì sẽ bị hôi thối như giòng nước tù đọng, không xử dụng được gì, mà đôi khi còn nguy hại nữa. Biết gieo trồng ra, ta sẽ gặt hái lại được rất nhiều, giống như một hạt lúa ta đem gieo trồng, sẽ gặt được cả hằng trăm hạt thóc, nếu ăn là mất hết, nếu để mãi trong bồ, rồi sẽ có ngày bị chuột, bọ ăn hoặc là bị mốc hư vậy.

Ta biết chia sẻ đến những người bệnh hoạn, neo đơn khốn khổ, hay cung dưỡng cho cha mẹ, những bậc trưởng thượng và hộ trì Tam bảo tức là ta biết mang những hạt giống gieo cấy vào những ruộng phước phì nhiêu, sau nầy ta sẽ gặt hái được rất nhiều, phước đức cũng từ đây sinh khởi. Trên con đường tu tập, Bố thí là một phương pháp thực tập rất nhiệm mầu. Bố thí với tâm thành kính, không nhớ tưởng, giúp Ta vừa tu phước vừa tu huệ, vừa quán triệt được sự“vô thường” của vạn vật, “khổ” của cuộc đời, “không” của muôn pháp, cũng như quên mình giúp người, tập cho Ta thể nghiệm được tinh thần “vô ngã”. “Ta hãy học theo Đức Phật và kinh nghiệm trực tiếp từ hai hành động của mình: ban cho và nắm giữ lại, cái nào sẽ mang lại cho ta khổ đau và cái nào sẽ mang lại cho ta nhiều hạnh phúc hơn? Ta sẽ thấy rõ. Đức Phật có dạy: "Này các Đệ tử, trong cuộc sống này, một người biết ban cho sẽ có ba hạnh phúc. Bahạnh phúc ấy là gì? Trước khi bố thí tâm người ấy cảm thấy hạnh phúc. Trong khi bốthí, tâm người ấy cảm thấy an lạc. Và sau khi bố thí tâm người ấy cảm thấy rất hânhoan." Điều đặc biệt, ta hãy quán xét trong xã hội hiện tại, với luật nhân quả và biệt nghiệp cũng như cộng nghiệp, khi thực hành hạnh BỐ THÍ ta cần biết và lưu ý, để thấy được sự nhiệm mầu của Phật Pháp: * NỘI và NGOẠI TÀI THÍ sẽ được giàu sang, sung sướng. * PHÁP THÍ sẽ được thông minh, trí tuệ. * VÔ ÚY THÍ sẽ được mạnh khỏe, sống lâu. _Mình bố thí mà không khuyên mọi người cùng bố thí = sau nầy sẽ được giàu, nhưng ở chung với nhà nghèo. _Mình không bố thí mà khuyên mọi người bố thí = sau nầy sẽ nghèo, ở chung với nhà giàu. _Mình không bố thí, cũng không khuyên mọi người bố thí = sau nầy sẽ nghèo, ở chung với nhà nghèo. _Mình bố thí cũng khuyên mọi người cùng bố thí = sau nầy sẽ được giàu, ở chung nhà giàu. Ta hãy thử thực tập và hãy tự chính mình trải nghiệm đi! sẽ tràn đầy an lạc, hạnh phúc, cho tự thân và cho tha nhân, tất cả mọi người đều thực hành được hạnh Bố Thí, lúc đó không còn gian tham, trộm cướp, của rơi không ai lượm, nhà không cần khóa cửa, mọi người sống cảnh thanh bình an lạc, như vậy thì trần gian nầy sẽ hoá thành Tịnh độ !.

T.Viên Thành (Hạnh Trung) 06/08/2013 


BỐ THÍ là diệt LÒNG THAM


Cúng dường bố thí chân thành An vui hiện tại, để dành mai sau, Hiện nay ta được sang giàu Biết rằng ngày trước ta hay làm lành Bây giờ bố thí thực hành Ngày sau giàu có vinh danh nhiều đời Ngày nay đói rách tả tơi Trước đây bỏn xẻn sống đời tham gian Muốn cho hết cảnh cơ hànMở lòng của cải rộng ban toàn cầuMuốn cho diệt hết khổ đau An lạc kẻ khác ta mau tiến hành Buông xả sự nghiệp công danh Tỉnh thức nhân thế phát sanh tâm từ Phước đức trùm khắp thái hư Nhưng chỉ đến với những người phát tâm Hoa sen chỉ mọc trong đầm Hạnh phúc phú quý không lầm đắm mê Trí tuệ soi sáng mọi bề Lòng tham dứt hẳn si mê không còn Phật không phải ở núi non Hay trong chùa đẹp sơn son thép vàng Phật ngự khắp cả thế gian Trong tâm vắng lặng muôn ngàn từ bi Vui cho lợi ích tức thì Được người yêu mến, tham thì cũng tiêu Tâm hồn phơi phới như diều Lâng bay theo gió mọi điều bình an Cho ra chớ sợ tiêu tan Mà làm thiện ích, cũng đang để dành Ngân hàng công đức ghi danh Những ai mở rộng lòng thành hiến dâng Cho là báo đáp tứ ân Lá lành đùm rách ân cần giúp nhau Vòng tay mở rộng chừng nào Là ôm vũ trụ gom vào bấy nhiêu Quẳng gánh ta được nhiều điều Vừa nhẹ thân xác vừa tiêu lo phiền 

Thế gian muốn sống như tiên Cúng dường, bố thí hãy liền phát tâm. 

T. Viên Thành ( Hạnh Trung )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5549)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5465)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6868)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4251)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9075)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5416)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5039)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5626)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6129)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5150)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]