Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kiên Định & Nhẫn Nhục, vũ khí của Bậc Đại Trí

10/08/201305:23(Xem: 12624)
Kiên Định & Nhẫn Nhục, vũ khí của Bậc Đại Trí

Sakya_Muni_55


KIÊN ĐỊNH VÀ NHẪN NHỤC

VŨ KHÍ CỦA BẬC ĐẠI TRÍ

Nói đến hạnh nhẫn nhục thì có lẽ không ai trên cõi đời này – nhất là giới giàu sang phú quý, thanh thế uy quyền – nhẫn nhục bằng Đức Phật khi còn tại thế. Ngài nhẫn nhục chỉ vì mục đích tối thượng là tìm ra chánh đạo, giải thoát sanh tử cho mình và cho mọi người, mang lại thanh bình, an lạc cho chúng sanh. Nhẫn nhục ở đây không mang ý nghĩa ráng sức chịu đựng hay “cố đấm ăn xôi” nhằm đạt đến mục tiêu danh vọng của riêng mình.

Khi còn là thái tử Tất-đạt-đa, Ngài đã phải bao phen nhẫn nhục trước thái độ ngang tàng, phách lối của Đề-bà-đạt-đa, người em con chú của Ngài.

Hôm đó Tất-đạt-đa đang ngồi trên lưng voi diễn qua kinh thành Ca-tỳ-la sau khi thắng cuộc so tài cung kiếm và được quốc vương Thiện Giác gả công chúa Da-du-đà-la. Đề-bà-đạt-đa nổi máu ganh tức, và để ra uy với mọi người, chàng tóm lấy đầu voi, đấm chơi một cú, thế là thớt voi khổng lồ lăn đùng xuống đất, và thái tử Tất-đạt-đa té nhào. Chàng thản nhiên đứng dậy, ôn tồn nói:

- Đề-bà-đạt-đa, hành động của cậu không đẹp tí nào, chưa phải lúc cho cậu dương oai diệu võ như vậy! Đề-bà-đạt-đa ngước mặt kênh kênh rồi bỏ đi.

Qua sáu năm tu hành khổ hạnh trong núi rừng sương tuyết, Ngài đã phải kham nhẫn đến độ tưởng chừng như sức người không chịu nổi, và rồi dưới cội Bồ đề, trước giờ đắc đạo, âm binh quỷ quái và nội chướng ngoại ma trong nhiều đời nhiều kiếp nhất tề nổi dậy công phá mục tiêu giải thoát và hóa độ chúng sanh của Ngài. Và tất nhiên là chúng đã bị trí tuệ và sức kiên định của Ngài hàng phục.

Sau khi ngộ đạo, trên bước đường vân du hoằng hóa, Ngài lại gặp biết bao nghịch cảnh rợn người. Với hạnh từ bi, nhẫn nhục, Ngài đã hóa giải và nhiếp thọ tất cả.

Một hôm trên đường về Xá-vệ, Đức Thế Tôn đi ngang qua một cánh đồng nhằm mùa gặt hái. Dân chúng đang nô nức ăn mừng linh đình. Thấy Đức Thế Tôn từ xa đi lại, Ba-rad-va-ja (Bharadvaja), một tín đồ Bà la môn, chạy ra dang hai tay chận Ngài, nói:

- Ông đạo, mời ông đi ngay cho. Ông làm gương xấu cho mọi người. Ở đây chúng tôi đang kiểm điểm và ăn mừng thành quả lao động của chúng tôi. Ông chả làm gì cả. Ông lang thang khắp nẻo phố phường. Ông lê la cùng đường cùng xóm. Ông chỉ mệt một chút là gặp ai ông cũng chìa bình bát ra. Tốt hơn là ông nên lao động, ông nên cày bừa gieo hạt mà ăn.

- Này bạn, Đức Phật mỉm cười nói, ta cũng cày bừa gieo hạt như bạn. Khi công việc làm xong, ta dùng bữa thoải mái.

- Ông mà cũng cày bừa gieo hạt! Ai tin được điều đó? Trâu bò của ông đâu? Hạt giống của ông đâu? Cày bừa của ông đâu?

- Này bạn, hiểu biết trong sạch là hạt giống mà ta gieo trỉa, tu tập thánh thiện là mưa lành tưới trên mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái và già chín trên đó. Ta cầm cày kiên cố : lưỡi cày là trí tuệ, chuôi cày là giáo pháp, thành tín là con bò thiến khỏe mạnh kéo cày. Ta cày đến đâu là ái dục trốc gốc như cỏ phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ mùa ta thu hoạch chính là hoa quả vô sanh.

Như bị thôi miên, Ba-rad-va-ja đứng sững sờ một lát rồi sụp lạy dưới chân Ngài. Đoạn mời Ngài vào nhà, cúng dường vật thực và thỉnh Ngài thuyết pháp cho gia quyến cùng nghe. Ngài đã thuyết giảng Bát Chánh Đạo : Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; và Tứ Vô Lượng Tâm : Từ – Bi – Hỷ – Xả. Mọi người hoan hỷ lắng nghe và xin quy y Ngài.

Rồi có lần Đức Thế Tôn và A-nan bị hoàng hậu Ma-gan-đi-da (Magàndiya) xúi giục đám nô lệ mắng nhiếc thậm tệ. Chúng gọi thầy trò Ngài là lũ âm binh ma quái, bọn súc sanh trá hình. A-nan đau buồn thỉnh Phật đi nơi khác. Đức Thế Tôn nhỏ nhẹ hỏi :

- Nên đi đâu bây giờ A-nan?

- Đến một thành phố khác, bạch Thế Tôn.

- Nếu ở đó bị hủy báng nữa thì sao?

- Thì đến thành phố khác nữa.

- Nếu bị hủy báng nữa?

- Thì đến nơi khác nữa.

A-nan, ở đâu có chướng duyên, ở đó ta dừng bước. Ta như một thớt voi lâm trận, chấp nhận mọi cung tên và kham nhẫn mọi hủy báng. Có ai nghe voi than phiền giữa trận mạc bao giờ. Hãy tu tập hạnh nhẫn nhục, A-nan.

Lố bịch nhất là nhóm ẩn sĩ Bà la môn âm mưu xúi giục Chiến-già (Sinca) lăng nhục Đức Phật.

Một buổi sáng đẹp trời, Ngài đang thuyết pháp giữa chánh điện. Chiến-già, trông giống như một bà đang mang thai sắp đến ngày sinh nở, khệnh khạng vào ngồi trước mặt Đức Thế Tôn rồi cất giọng sang sảng nói:

- Ngài thuyết pháp lời lẽ ngọt như đường mật. Còn em, mang thai với Ngài, sắp làm mẹ trong nay mai, thì không có đến một nơi nằm chỗ; củi lửa than dầu cũng không có! Nếu Ngài xấu hổ thì nhờ đệ tử của Ngài như quốc vương Ba-tư-nặc hay trưởng giả Cấp-cô-độc lo cho em chứ. Nhưng không!… Ngài chỉ biết vui hưởng ái tình mà cóc cần cưu mang trách nhiệm! Ả vừa nói vừa quơ quơ hai tay lên trời như một mụ phù thủy.

Đức Thế Tôn thản nhiên, hỏi:

- Này cô em, cô nói thật hay vu khống đó?

- Anh biết rõ quá mà, em đâu có nói láo!

Các Phật tử Ưu bà di định đứng dậy lôi cổ con mẹ “khùng khùng” ra khỏi chùa, nhưng Đức Thế Tôn đưa tay ra hiệu họ ngồi xuống. Thấy thế, Chiến-già càng thêm sôi máu; ả đứng phắt dậy, định xông đến làm nhục Đức Thế Tôn, nhưng vì ả thở mạnh quá, chiếc dây nịt ở bụng đứt ra, trái banh gỗ rớt xuống sàn nghe cái đạch, Đức Thế Tôn cười, nói:

- Đó, con của cô sanh rồi đó!

Vừa xấu hổ, vừa sợ hãi, ả té xỉu bất tỉnh. Hai sư cô phải dìu ả sang nhà bên xoa dầu, thoa bóp và chăm sóc cho đến khi ả tỉnh lại.

Ngay với các đệ tử của mình Đức Thế Tôn cũng thường giáo hóa bằng hạnh nhẫn nhục.

Nhóm Tăng sĩ trẻ tại Kiều-thưởng-di say mê tranh luận đến bất chấp ngôn hạnh của Bổn Sư. Hai ba lần khuyên răn không được, Đức Thế Tôn họp chúng lần chót, dạy rằng:

- Hạnh phúc thay cho ai có được người bạn chân tình. Hạnh phúc thay cho ai có được người bạn sáng suốt. Chướng ngại nào mà hai bạn tài đức không thể vượt qua. Người không có bạn tâm giao khác nào vua không có đất nước : phải lang thang phiêu bạt trong cô đơn hiu hắt như thớt voi già giữa cánh rừng hoang.

Ngài lặng lẽ giã từ Tăng chúng, một mình ôm bát vào núi an cư ba tháng mùa mưa với sự trợ giúp của chú voi già và cậu khỉ vàng thân thiện.

Đề-bà-đạt-đa, đệ tử Phật, quyết tâm hại Thầy để thống lãnh Tăng đoàn, Ngài vẫn không hề than trách. Ngài cố tình tránh mặt và nghĩ rằng chỉ có lòng từ bi và hạnh nhẫn nhục mới đủ sức cảm hóa con người một dạ hai lòng và nhiều tham vọng đó. Và đúng như vậy, trong thời gian lâm bịnh, Đề-bà-đạt-đa đã ngày đêm ăn năn sám hồi và niệm danh hiệu Ngài cho đến khi giã từ dương thế trong đau thương khốn khổ.

Ngài dạy rằng:

Nhẫn nhục hạnh tối cao,

Niết bàn quả tối thượng,

Xuất gia nhiễu hại người,

Đâu còn Sa môn tướng.

(PC. 184)

Nhẫn nhục quả là đức hạnh cao cả của bậc đại hùng, đại lực, đại trí, đại bi. Thiếu kiên định và nhẫn nhục thì Phật sự và đạo nghiệp khó thành. Thảo nào trước khi nhập diệt, Đức Thế tôn đã di chúc lại cho môn đệ của Ngài trong kinh Di Giáo:

- Ai kham thọ nhẫn nhục một cách hoan hỷ như uống nước cam lồ, người ấy xứng danh là bậc vào đạo có trí.

Đúng vậy! Chỉ có nhẫn–nhẫn–nhẫnmới tránh được mọi xung đột, oan khiên và bất hạnh trên đời.

(Đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ số 60, ngày 24/5/1997, Mừng Phật Đản 2541)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/04/2012(Xem: 8310)
Xuyên qua không gian và thời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
18/04/2012(Xem: 11938)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
18/04/2012(Xem: 10911)
Ban cho với lòng vị tha có ý nghĩa rèn luyện từ chiều sâu của trái tim trong một thái độ rộng lượng chẳng hạn mà chúng ta không tìm cầu bất cứ một phần thưởng hay kết quả nào cho chính mình. Hãy nghĩ về hành vi từ thiện và tất cả những lợi ích của nó như chỉ hướng đến lợi ích của người khác. Mặc dù từ thiện có thể được tiến hành bởi những ai tìm kiếm lợi ích cho chính họ, chẳng hạn như ai đấy hiến tặng từ thiện nhằm để trở nên nổi tiếng, bố thí vị tha hoàn toàn không liên hệ đến lòng vị kỷ.
18/04/2012(Xem: 10855)
Chức năng đặc trưng của đại bi là gì? Như Liên Hoa Giới[1]nói trong Những Giai Tầng Thiền Quán: Khi chúng ta cảm thấy bi mẫn tự động phát sinh nguyện ước tiêu trừ hoàn toàn khổ đau của tất cảchúng sinh - giống như nguyện ước của một bà mẹ làm vơi bớt nổi khổ đau vì bệnhtật của đứa con yêu mến ngọt ngào của bà - thế thì lòng bi mẫn của chúng ta làhoàn toàn và do thế được gọi là đại bi[2].
17/04/2012(Xem: 10947)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
16/04/2012(Xem: 7430)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
16/04/2012(Xem: 9336)
ột vài người có thể nghĩ rằng, Rime (Rimed, phát âm là Remay) là một truyền thống riêng biệt của Phật giáo Tây Tạng, hay đây là một truyền thống mới, tách biệt khỏi tám dòng truyền thừa thực hành hay năm truyền thống chính. Nhưng sự thật thì không phải thế.
16/04/2012(Xem: 9584)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
14/04/2012(Xem: 9105)
Phật giáo dùng một thí dụ dễ hình dung và đầy thi vị để tượng trưng cho sự tu tập : « vượt sang bờ bên kia của đại dương khổ đau». « Vượt sang bờ bên kia» là nghĩa từ chương của chữ Ba-la-mật,tiếng Phạn là Paramita, kinh sách gốc Hán gọi là « đáo bỉ ngạn» (đến được bờ bên kia). Nhưng thật ra ý nghĩa của chữ Ba-la-mật thường được hiểu theo nghĩa bóng là « Hoàn hảo», « Hoàn thiện», « Siêu nhiên», « Đạo hạnh siêu phàm», « Đạt đuợc trí tuệ siêu việt»…
14/04/2012(Xem: 8515)
Cólẽ người đọc cũng hơi ngạc nhiên với một chủ đề xưanhư trái đất. Không biết đã có bao nhiêu băng đĩa CD, sáchvở, bài viết, bài giảng về chủ đề Chánh ngữ. Tuy nhiêndù đã thuộc lòng hay đã nghe giảng đến nhàm tai, có baogiờ ta tự hỏi đã áp dụng chánh ngữ được bao nhiêu lầntrong cuộc sống của mình và có khi nào ta tìm hiểu xem vaitrò của chánh ngữ nằm ở đâu không trong cái xã hội tântiến ngày nay ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]