Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

An lạc, khát vọng của mọi cuộc hành trình

10/08/201305:19(Xem: 12226)
An lạc, khát vọng của mọi cuộc hành trình

hoa_hong (8)
AN LẠC – KHÁT VỌNG CỦA MỌI CUỘC

HÀNH TRÌNH

Kinh Pháp Cú (Dhammapada) có 26 phẩm, trong đó Đức Phật dành hẳn một phẩm nói về thái độ và quan niệm dấn thân trên mọi cuộc hành trình của tín đồ Phật giáo, cuộc hành trình nào cũng nhắm đến mục đích hạnh phúc an vui và thong dong tự tại. Đó là phẩm An Lạc (Sukkha Vagga).

An lạc, theo kinh văn Phật giáo, có hai phần : thân an lạc và tâm an lạc. Trên cuộc hành trình từ mê đến ngộ, từ phàm đến thánh, từ trầm luân đến giải thoát, mỗi hành giả phải biết trân trọng và tu dưỡng theo các yếu tố như sau:

  1. 1. Giữ gìn sức khỏe:

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Sức khỏe quý hơn vàng”. Tục ngữ Anh cũng có câu: “Sức khỏe tốt quý hơn tài sản: Good health is above wealth”. Đúng vậy, sức khỏe tốt là đầu mối của mọi thành tựu và sáng tạo. Trong cuộc hành trình vượt biển sanh tử luân hồi, hành giả không thể an tâm và hy vọng đến đích trên một con tàu mong manh. Cũng thế, trên bước đường hành quân diệt giặc tham lam, sân hận, si mê mà hành giả lúc nào cũng nhờ đấm bóp chân tay hay xoa dầu cạo gió thì khó mà ca khúc khải hoàn, hay thấy được áng nắng vàng lung linh trên màu xanh của lá. Cho nên, trên lộ trình tiến đến an lạc, để vừa đi vừa thưởng thức được tiếng chim hót ban mai hay dõi mắt nhìn theo những cánh cò loang loáng giữa bầu trời xanh biếc, hành giả phải ý thức rằng:

Sức khỏe là lợi ích,

Biết đủ là giàu sang,

Thành tín là họ hàng,

Niết bàn là hạnh phúc.

(PC. 204)

Đúng vậy, thân thể có tráng kiện thì tâm hồn mới minh mẫn, đầu óc không loạn động thì thần khí mới thong dong, thành tín với mọi người thì tiếng thơm được lan tỏa, thiện hữu tri thức nhờ vậy mỗi lúc một thân cận như bà con quyến thuộc, và hạnh phúc an lạc là ở đó. Ngoài ra, hành giả cũng phải biết tránh xa hai thái cực khổ hạnh và lạc thú, biết điều dưỡng thân tâm sao cho phù hợp với mọi tình huống trên lộ trình thanh tịnh lâu dài và gian khổ, bởi vì điều kiện thể lý như đói no ấm lạnh v.v… ảnh hưởng rất mạnh đến chiều hướng thoái hóa hay quá trình thăng hoa của mỗi hành giả.

Đói bụng bịnh tối trọng,

Thân xác khổ vô vàn,

Hiểu đúng sự thật ấy,

Đạt vô thượng niết bàn.

(PC. 203)

Niết bàn là sự dập tắt mọi quan niệm đối đãi, mọi chướng ngại vi tế hay thô lậu trong nội tâm con người, là cõi lòng thênh thang rộng mở, là ánh mắt từ ái bao dung, là vòng tay thân thương ôm trọn cả sơn hà đại địa. Hành giả phải thấy, phải biết, phải nâng niu và hãnh diện với sắc thân nhỏ bé nhưng khỏe mạnh của chính mình mà cảm ơn từng hạt gạo hạt mè, từng cọng rau lá cải, từng giọt sương trên lá, từng kẻ lạ người quen:

Lành thay ta vui sống,

Khỏe mạnh giữa yếu đau,

Giữa những người yếu đau,

Ta sống không đau yếu.

(PC. 198)

2. Xóa bỏ hận thù:

Yếu tố thứ hai trên bước đường dẫn đến an lành hạnh phúc là xóa bỏ lòng hận thù, trưởng dưỡng tâm từ ái, vì rằng:

Hận thù diệt hận thù,

Đời này không thể có,

Từ bi diệt hận thù,

Là định luật ngàn thu.

(PC. 5)

Chỉ có tình thương và sự hiểu biết mới xóa sạch được mọi vết hằn năm tháng, mọi ẩn ức ngấm ngầm, mọi mưu toan vay trả, mọi nghiệt ngã trên đời:

Chiến thắng gây thù hận,

Thất bại chuốc khổ đau,

Từ bỏ mọi thắng bại,

An tịnh liền theo sau.

(PC. 201)

Bao lâu còn ôm lòng thắng bại, bấy lâu còn uất khí nghẹn ngào. Hành giả trên lộ trình thánh đạo ắt phải tự thân quán chiếu, rèn luyện tư duy theo lộ trình ban vui cứu khổ, giải trừ nội kết thì mới tận hưởng được cảnh thái hòa, hỷ lạc:

Lành thay ta vui sống,

Từ ái giữa oán thù,

Giữa những người oán thù,

Ta sống không thù oán.

Lành thay ta vui sống,

Không chướng ngại ngấm ngầm,

Tận hưởng nguồn hỷ lạc,

Như chư thiên Quang âm.

(PC. 197, 200)

Đức Phật khuyên môn đệ của Ngài phải sống bằng kinh nghiệm dấn thân theo suối nguồn của thánh đạo thì mới cảm nhận được cảnh thong dong tự tại giữa đất trời bao la.

3. Đoạn trừ tham dục:

Yếu tố thứ ba là đoạn trừ tham dục, tham dục là năng lực xung động phấn khích để đạt đến mục tiêu trong lòng người, và ai ai cũng có ít nhiều tham dục, như tham tiền bạc của cải, tham nhan sắc mặn mòi, tham tiếng tăm lừng lẫy, tham ăn trước ngồi trên, tham ngủ nghỉ thoải mái v.v…, trong đó tham quyền uy thế lực là sâu nặng nhất, ác liệt nhất. Thảo nào Đức Phật thường khuyến cáo những Sa môn hay lăng xăng rổn rảng, khoái phô trương danh tướng mà quên nhìn lại công hạnh của chính mình:

Kẻ ngu ham danh hão,

Khoái ngồi trước Sa môn,

Ưa quyền trong tu viện,

Thích mọi người suy tôn.

(PC. 73)

Tham dục thôi thúc con người cứ theo đà lao tới như chiếc xe đổ dốc bị đứt thắng, hay con thiêu thân húc đầu vào ánh lửa ban đêm. Chỉ người trí mới có đủ nghị lực nắm giữ và buông xả vị thế của mình một cách nhẹ nhàng thanh thản như nâng tách trà lên và đặt tách trà xuống, và do đó người trì thường được cái nhẹ nhàng giản dị bên trong và cái ung dung tự tại bên ngoài:

Lành thay ta vui sống,

Vô dục giữa khát khao,

Giữa những người khát khao,

Ta sống không khao khát.

(PC. 199)

An lạc hạnh phúc còn được lưu xuất từ sự dập tắt mọi ý niệm tham lam, sân hận, si mê; từ ý thức thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã; và nhất là từ quyết tâm thánh hóa của chính hành giả:

Lửa nào bằng lửa tham,

Ác nào bằng ác hận,

Khổ nào bằng khổ thân,

Vui nào bằng tịch tịnh.

(PC. 202)

4. Xa lánh si mê:

Si mê là nguyên nhân của mọi trần lao phiền não và suy thoái trên đời. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Giới phàm phu tu hành mà không được thân cận với các bậc thiện hữu trí thức, tôn đức minh sư, chỉ loanh quanh với hạng vào ra xoay xở thì khó mà tránh tủi hổ:

Sống với kẻ si mê,

Ắt bốn bề sầu tủi,

Gần gũi người ngu muội,

Khổ như gần kẻ thù,

Thân cận bậc trí tu,

Vui như gặp thân thuộc.

(PC. 207)

5. Thân cận hiền đức:

Hiền đức là người nội tâm không vướng mắc, ngoại cảnh không vọng cầu, chuyên thọ trì giới luật, thường đọc tụng kinh văn, khéo giảng giải nghĩa lý; là nguời cảm thông, lân mẫn và huớng dẫn kẻ khác trên lộ trình tiến đến an lạc, giải thoát với tâm lượng thênh thang rộng mở và rạng rỡ như ánh trăng rằm:

Nên gần bậc hiền trí,

Bậc trì giới đa văn,

Bậc đạo hạnh, thánh tăng,

Bậc thiện nhơn, túc trí,

Thân cận vậy thật quý,

Như trăng theo đường sao.

(PC. 208)

Thân cận với các bậc học rộng hiểu nhiều, tâm hồn cao thượng, đức độ khiêm cung thì chắc chắn sẽ vơi dần sầu muộn, vui hưởng thái hòa, trí tuệ thăng hoa, sống đời ân ích.

Năm mới, mong ai ai cũng được an khang hoan hỷ, giũ sạch hận thù, diệt trừ si mê, cận kề hiền đức; ai ai gặp nhau cũng tay bắt mặt mừng, vui cười rạng rỡ trong tình huynh đệ trên trái đất này.

(Đã đăng trong nguyệt san Giác Ngộ số 22, đặc biệt Xuân Mậu Dần, 1998)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2010(Xem: 7436)
Khi có mặt trên cuộc đời này, tiếng gọi đầu tiên mà ta gọi đó là Mẹ, tình thương mà ta cảm nhận được trước nhất là tình của Mẹ, hơi ấm nồng nàn làm cho ta cảm thấy không lạnh lẽo giữa cuộc đời được toả ra từ lòng Mẹ, âm thanh mà ta nhận được khi chào đời là hai tiếng “con yêu” chất liệu nuôi lớn ta ngọt ngào dòng sữa mẹ như cam lộ thiên thần dâng cúng Phạm Thiên.
21/08/2010(Xem: 7549)
NHỮNG LỜI DẠY THỰC TIỄN CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA Tựasách : «108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité» Nhàxuất bản: Presse de la Renaissance, Paris 2006. Do nữ ký giả Phật tử CathérineBarry tuyển chọn - Chuyển ngữ Pháp-Việt : HoangPhong
19/08/2010(Xem: 8999)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
09/08/2010(Xem: 8899)
Câu chuyện dưới đây thật xa xưa, có lẽđã xảy ra từ thời Trung cổ tại Âu châu và cả nhiều thế kỷ trước đó tại Trung đông.Tuy nhiên chúng ta cũng có thể khởi đầu câu chuyện với một sự kiện chính xác hơnxảy ra vào thế kỷ XVI khi tòa thánh La-mã phong thánh cho hai vị mang tên là Barlaamvà Joasaph, và chọn ngày 27 tháng 11 mỗi năm để làm ngày tưởng niệm họ. Riêng Chínhthống giáo (Orthodoxe) thì chọn ngày 26 tháng 8.
04/08/2010(Xem: 9300)
CáchTrợ Niệm Cho Người Khi Lâm Chung, HT. Tịnh Không, ThíchNhuận Nghi dịch
27/07/2010(Xem: 8853)
D.T. Suzuki (1870 -1966) thườngđược xem là một trong những vị thiền sư lớn nhất của thế kỷ XX. Thật ra thì rấtkhó hay không thể để chúng ta có thể đo lường được chiều sâu của sự giác ngộtrong tâm thức của các vị thiền sư, vì việc đó vượt ra khỏi khả năng của chúngta, và vì thế cũng rất khó hoặc không thể nào đánh giá họ được. Chúng ta chỉ cóthể dựa vào sự bén nhạy của lòng mình để ngưỡng mộ họ mà thôi.
19/07/2010(Xem: 8081)
Đất nước ta có một lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, Phật giáo Viẹt Nam có bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm hoằng pháp độ sanh. Kể từ ngày du nhập đến nay, với tinh thần khế lý, khế cơ, khế thời, Đạo Phật đã thực sự hoà nhập cùng với đà phát triển của đất nước và dân tộc. Trải qua bao cuộc biến thiên, Phật Giáo Việt Nam cũng thăng trầm theo những thời kỳ thịnh suy của dân tộc, nhưng không vì thế mà việc hướng dẫn các giới Phật tử tại gia bị lãng quên.
17/07/2010(Xem: 9558)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.
01/07/2010(Xem: 16227)
Ở làng quê Việt Nam ngày xưa, khi làm mùa vụ, người nông dân có thể nhờ vài người trong thôn xóm đến phụ giúp mà không phải trả tiền. Chỉ cần đến phiên bên kia làm mùa vụ, hay sửa sang nhà cửa, hoặc bất cứ công việc nặng nhọc nào đó, thì bên này sẽ qua phụ giúp lại. Cái đó gọi là vần công. Cách thức này thật hay.
25/06/2010(Xem: 9992)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]