Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Niệm Phật tức niệm tâm

13/04/201203:21(Xem: 8674)
22. Niệm Phật tức niệm tâm

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Niệm Phật tức niệm tâm

Tâm chúng sanh với Phật xưa nay vốn đồng nhất thể thanh tịnh, nhưng vì chúng sanh thả tâm chạy theo trần cảnh nên bị vọng tình làm ô nhiễm; sự ô nhiễm ấy là do nơi ngũ dục: sắc, tài, danh, thùy, thực lôi cuốn. Nếu tâm không khởi động tham sân si; thân không khởi tạo sát, đạo, dâm, vọng; thì nhất định lúc nào cũng thanh tịnh, mà, tâm đã thanh tịnh thì việc cầu sanh tây Phương Cực Lạc có chi là khó.

Tâm tham, sân, si, nổi lên thì chúng sanh cũng có thể tạo bất cứ nghiệp ác gì; những hiện tượng thường xảy ra chung quanh ta như: giết người, cướp của, hãm hiếp.. đó là tâm địa ngục, ngã quỷ, súc sanh của chúng sanh đó khởi dậy; không phải chỉ có tâm lúc đó là tâm ác đạo mà, ngay cả tướng mạo thân hình lúc đó cũng là tướng của ác đạo. Tâm ta tưởng Phật tức ta là Phật, từ ba mươi hai tướng tốt cho đến tám mươi nét đẹp đều xuất hiện trong ta. Khi ta nhiếp tâm niệm Phật thì cảnh giới Tây Phương hiện hữu trong tâm tưởng ta; đồng thời tâm ta cũng luôn hằng thường nghe phật Di Đà thuyết pháp. Hằng ngày tâm ta không niệm ngũ dục, nên cảnh trần ảo mộng của thế giới Ta Bà đối với tâm ta không in bóng; cảnh giới lục đạo luân hồi không thể hiện hữu trong tâm ta, dù rằng ta đang ở trong lục đạo luân hồi. Nhưng ta sẽ sanh về tây Phương vì tâm ta lúc nào cũng niệm Phật, nghe Phật thuyết pháp và, thật sự tâm ta đang sống với cảnh giới Cực Lạc Tây Phương của Phật A Di Đà. Tâm chúng sanh nhiễm ô bởi ngủ dục, nên chúng sanh sống ở thế giới phàm Thánh Đồng cư độ (có kẻ phàm người thánh); nhưng nếu chúng sanh tâm đã lìa nhiễm luôn ở trong cảnh thanh tịnh của chư Phật, lúc nào tâm cũng là Phật, cảnh là cảnh Phật, thì chúng sanh ấy đang ở trong cảnh giới thường tịch quang tịnh độ (cảnh giới thanh tịnh của chư Phật, thánh nhân không có xen lẫn phàm nhân); tuy chúng sanh ấy thân còn trụ nơi Ta Bà ô nhiễm nhưng tâm đã vượt ra ngoài phạm vi tam giới, mà, thể nhận vào thế giới cửa chư Phật, thế giới của Phật Di Đà.

Phật pháp thường dạy người tu căn bản là phải giữ gìn tâm ý, ý tưởng buông lung gây ác nghiệp vô lượng; vọng tưởng không an, phiền não khởi dậy, thiện nghiệp công đức sẽ khó thành tựu. Người thế gian luôn nghĩ đến tài, sắc, danh, lợi...nên tâm chí cuồng loạn quay cuồng trong khổ đau, từ trong đau khổ này đi vào trong đau khổ khác mà không nhìn thấy tự cho là vui; từ đó tạo thêm nhân đau khổ khác để mang tiếp quả đau khổ mãi mãi không bao giờ dứt.

Là người học Phật, niệm Phật dầu cho tại gia hay xuất gia, ta cũng phải nhìn thấy vấn đề, đem tâm sợ hãi nghiệp chướng mà tự mình chuyên cần tinh tấn niệm Phật. Phật là bậc giác ngộ, thanh tịnh tột cùng nên ta phải đem tâm tưởng nhớ và hằng niệm thường ngày. Từ đó chuyển được tâm phàm phu mê muội, phiền não để trở thành tâm thanh tịnh, sáng suốt đồng như chư Phật. Nên biết khi tâm ta suy nghĩ tưởng nhớ ác nghiệp đó là ta đang tạo niệm nhân ác, thì nghiệp quả chiêu cảm sẽ là ba đường ác; nếu lúc nào tâm ta cũng suy nghĩ tưởng nhớ đến sự diệu dụng công đức vô lượng của Phật Di Đà mà hằng niệm danh Ngài, đó là niệm Phật nhân, thì ta sẽ có Phật quả là vãng sanh về Tây Phương gặp Phật Di Đà, nghe pháp.

Trong Kinh có dạy: ”tam đồ bát nạn cu ly khổ” nghĩa là: sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, trước Phật sau Phật, Bắc cu lô châu, trời Vô Tưởng, đui điếc câm ngọng, thế gian trí biện luận; nếu chúng sanh nào sanh nhằm một trong tám nạn này đều gọi là nạn khổ. Ở đây chúng ta thấy sanh vào thời kỳ trước Phật hoặc sau Phật là một trong tám nạn. Hiện tại chúng ta sanh vào thời mạt pháp, Phật Thích Ca đã nhập diệt, Phật Di Lặc chưa ra đời nên gọi là một trong tám nạn; tuy nhiên vẫn còn được chút duyên lành là gặp được giáo lý của Phật, biết hướng thiện, biết tu biết niệm Phật. Từ vô lượng kiếp chúng ta đã trôi theo dòng sanh tử sống loạn thác cuồng trong sáu nẻo luân hồi, khi làm thân người trời có lúc lại đi vào địa ngục, ngạ quỷ...đã niếm không biết bao nhiêu mùi vị cay đắng của cuộc đời. Theo tôi thiết nghĩ những mùi vị cay đắng của cuộc đời trong lục đạo mà chúng ta đã trải qua như vậy cũng tạm gọi là đủ lắm rồi. Giờ này, may mắn có chút duyên lành gặp được Phật pháp, gặp được pháp môn tu thù thắng; vậy, kính xin mời tất cả chư vị cùng chúng tôi hãy chuyên cần mà niệm danh hiệu của Phật Di Đà, để lìa bỏ cảnh giới đau thương khổ lụy mà cầu sanh về cảnh Tây Phương. Chúng ta phát Bồ đề Tâm tu học lục độ vạn hạnh, ngồi thiền giác ngộ sanh lên cung trời Đâu Suất gặp Phật Di Lặc xuất thế chúng ta xuống theo tu để chờ ngày thành Phật; hoặc chúng ta nguyện ở lại thế giới này hành đạo Bồ Tát để chờ Phật Di Lặc ra đời... tất cả tựu trung bây giờ tu để chờ ngày gặp Phật, hoặc chờ ngày thành Phật. Đều giống nhau ở điểm là muốn đạt được đạo vô thượng Bồ Đề. Vậy thì tại sao Phật Di Đà đang trụ thế, đang thuyết pháp tại cõi Tây Phương, mà, ta lại không niệm Phật để cầu sanh về gặp Phật, nghe pháp liền, lại phải ở lại Ta Bà chờ gặp Phật Di Lặc. Sau khi sanh Tây Phương gặp Phật Di Đà nghe pháp chứng được bất thối Bồ Tát, trong một niệm đại bi tâm có thể chu du khắp mươi phương thế giới Phật sát vi trần quốc độ mà hóa độ chúng sanh trong đó có thế giới ta bà. Vậy thì pháp môn niệm Phật có gì là khác đối với các pháp môn khác, chưa nói là thuận tiện và dễ dàng hơn cho mọi tầng lớp tu tập.

Do sự thuận tiện của pháp môn niệm Phật ở thời mạt pháp như thế, nên khuyên đại chúng ngàn vạn lần không nên mong sanh trở lại thế giới Ta Bà, làm người có địa vị cao sang mà, hãy quyết tâm chuyển phàm tình lục dục trở thành thanh tịnh tâm của chư Phật bằng câu Phật hiệu Di Đà.

Chúng ta cũng không nên suy nghĩ vì mang nhiều tội chướng ác nghiệp, phàm phu hạ liệt mà không có khả năng niệm Phật để thành Phật. Phật dạy: ”ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành”. Trong kinh Pháp Hoa Phẩm Thường Bất Khinh, Bồ Tát Thường Bất Khinh mỗi khi gặp đại chúng đều lễ lạy và nói câu “tôi không dám khinh quý ngài, vì quý ngài là vị Phật tương lai” hoặc Phật là tâm, tâm là Phật. Vậy hôm nay ta niệm Phật là niệm tự tâm, là hiển bày vị Phật tự tánh, là làm cho Phật Di Đà nơi tự tâm được chiếu sáng, là nghe pháp âm vi diệu phát ra nơi tự tâm, tâm tịnh thì cảnh tịnh, tâm Cực Lạc thì cảnh Cực Lạc, tâm tâm Phật Phật đồng cư nơi Tịch Quang Tịnh Độ nên nói niệm Phật cũng gọi là niệm tâm. Vọng tâm diệt thì chơn tâm hiện. Hiện tại chúng ta là phàm phu, không phải là thánh nhân không ai là không có tội; có tội mà biết sửa đổi cải thiện, sám hối thì tội ấy sẽ tiêu trừ; tội tiêu thì phước đức tăng, trí tuệ sanh, thiện nghiệp lớn; làm được như vậy là chuyển chúng sanh tâm thành Phật tâm. Thỉnh chư vị tinh tấn niệm Phật để chuyển tâm chúng sanh đau khổ Ta Bà thành tâm thanh tịnh của Thánh chúng nơi cõi Cực Lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2019(Xem: 14964)
“Một nữ cư sĩ đến gặp vị thầy trụ trì và nói: "Bạch Thầy, Con không đi chùa nữa!" Vị Thầy hỏi: – Vậy à, Đạo hữu có thể cho thầy biết lý do không?
14/01/2019(Xem: 7785)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 6799)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6222)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 6648)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5529)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
09/01/2019(Xem: 5504)
Thơ Báo Ơn Khóa Tu Báo Ơn năm nay Chúng con tu tập những ngày mùa đông Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
09/01/2019(Xem: 10251)
Ngày 26/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã rời Làng Mai Thái Lan về Đà Nẵng. Hai ngày sau, chiều 28/10, Thầy đã về chùa tổ Từ Hiếu trong sự chào đón của các học trò cũng như tăng ni, Phật tử ở Huế. Chuyện này thì ai cũng biết và các báo đài đã đưa tin rất nhiều.
08/01/2019(Xem: 8081)
Trong thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã bàn tán xôn xao đến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư (CC4) và đưa ra nhiều ý kiến là Việt Nam cần phải hành động để đón đầu cuộc CC41. Trước những thách thức mới ấy, trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần có những kiến thức và kỹ năng gì để có thể đáp ứng nhu cầu lao động trong thời kỳ CC4?
08/01/2019(Xem: 7818)
TRÁI TIM RỘNG MỞ THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Thông dịch: Thupten Jinpa Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tác giả, dịch giả và người hiệu đính.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]