Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Từ ái: Căn bản của nhân quyền

15/04/201212:18(Xem: 8534)
10. Từ ái: Căn bản của nhân quyền
TỪ ÁI: CĂN BẢN CỦA NHÂN QUYỀN
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Biết sự tương ứng
về hành động và kết quả của chúng.
Trong thực tế hãy luôn luôn giúp đỡ chúng sinh,
Giống như giúp
đỡ chính mình.
- LONG THỌ, Tràng Hoa Quý Báu

HHDL-by-rgmsChínhlà con người có một cảm nhận đáng giá về cái "tôi" và đồng hành mộtcách tự nhiên từ cảm nhận ấy mà chúng tamuốn theo đuổi hạnh phúc và lẩn tránh khổ đau. Đây là quyền lợi bẩm sinh của chúng ta, và điều không cần phải bàn cãi gìhơn nữa. Những chúng sinh khác cũng mongước được tự do khỏi khổ đau, vì thế nếu chúng ta có quyền vượt thắng khổ đau,thế thì những chúng sinh khác tự nhiên cũng có cùng quyền con người như vậy. Vậy thì điều gì là sự khác biệt giữa tự thânvà người khác? Có một sự khác biệt lớnlao con số, nếu không phải là bản chất. Những người khác là con số nhiều hơn ta vô cùng. Ta chỉ là một, và con số của những chúng sinhkhác là vô hạn.

Ailà quan trọng hơn, ta hay những người khác?Tôi chỉ là một thầy tu Đạo Phật, nhưng những chúng sinh khác là con sốvô biên. Kết luận là rõ ràng, ngay cả nếumột nỗi khổ nho nhỏ xảy ra đến tất cả những người khác, phạm vi là vô hạn, tráilại khi điều gì đấy xảy ra cho tôi, nó là giới hạn đến chỉ một người. Khi chúng ta nhìn vào những người khác trongcách này, tự thân là không quá quan trọng.

Trongmười người bệnh, ai không muốn hạnh phúc? Không ai cả. Tất cả mọi người muốnthoát khỏi bệnh tật của họ. Trong sự thựctập vị tha, không có lý do nào ngoại lệ nào để đối xử với một người tốt đẹp hơntrong khi quên lãng những người khác. Trong thế giới này có hàng tỉ người, người nào, cũng giống như tôi,không ai muốn khổ đau và thật sự muốn hạnh phúc.

Từquan điểm của chính mình, hãy nhớ rằng tất cả chúng sinh đã từng giúp đở chúngta qua phạm vi những đời sống quá khứ và sẽ hỗ trợ chúng ta trong những kiếp sốngtương lai. Do vậy, không có lý do nào đểđối xử người nào đấy là tốt đẹp hơn những người khác là tệ hại hơn.

Tấtcả chúng ta có một bản chất của khổ đau và vô thường. Một khi chúng ta nhận ra rằng cộng đồng chúngta ở trong một sự khốn khó [của khổ đau và nhất là vô thường], không lý do nàotrong việc đấu tranh lẫn nhau. Hãy xem mộtnhóm tù nhân sắp bị hành quyết. Trong thờigian họ ở với nhau trong nhà tù, tất cả bọn họ sẽ đi đến chỗ kết cục. Không có ý nghĩa gì trong việc tranh cãitrong những ngày còn lại của họ. Tất cảchúng ta quyện kết trong cùng một bản chất của khổ đau và vô thường, chắc chắnkhông có lý do gì để tranh đấu với nhau.

THIỀN QUÁN

1- Hãy chú ýkinh nghiệm tự nhiên của chúng ta về cái "tôi", như trong "tôimuốn điều này", "tôi không muốn điều nọ."

2- Hãy nhận ra rằngthật tự nhiên để muốn hạnh phúc và không muốn đớn đau. Điều này là đúng và không cần đòi hỏi tranh cãigì nữa, được đánh giá một cách giản dị bằng sự kiện rằng chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đaumột cách bẩm sinh.

3- Được căn cứtrên khát vọng tự nhiên này, chúng ta có quyền đạt được hạnh phúc và loại bỏ khổđau.

4- Xa hơn, giốngnhư chúng ta có cảm nhận này và quyền lợi này, người khác cũng có cùng cảm nhậnvà cùng quyền lợi một cách bình đẳng.

5- Hãy phản chiếutrên sự kiện rằng sự khác biệt giữa tự thân và người khác là ta chỉ là một ngườiđơn lẻ, trái là những người khác là vô lượng.

6- Đề ra câu hỏinày: mọi người phải được dùng đến cho việc đạt đến hạnh phúc của tôi, hay tôinên giúp đở người khác đạt được hạnh phúc?

7- Hãy tự tưởngtượng, trầm tĩnh và hợp lý, việc nhìn vào quyền lợi của chính mình trong mộtphiên bản khác - nhưng cái tự ngã này tự hào quá đáng, không nghĩ đến quyền lợicủa người khác, quan tâm chỉ với tự thân của nó, sẳn sàng để làm bất cứ điều gìđể thỏa mãn nó.

8- Hãy hình dungbên trái ta một số những người khốn khó không liên hệ đến ta, nghèo nàn và đaukhổ.

9- Bây giờ, tađang ở ngay chính giữa là một người nhạy cảm không thành kiến. Hãy xem cả hai bên muốn hạnh phúc và muốntiêu trừ khổ đau; trong cách này, họ là đồng đẳng, giống nhau. Và cả hai bên có quyền để hoàn tất mục tiêu của họ.

10- Nhưng hãynghĩ:

Người với độngcơ vị kỷ ở bên phải chỉ là một con người, trái lại những người khác là con số lớnhơn nhiều, ngay cả là vô hạn. Ai là ngườiquan trọng hơn? Con người vị kỷ đơn lẻvà ngu si đó, hay nhóm người nghèo, và bất lực nọ?

Ta sẽ chọn phíanào? Như một người không định kiến ở giữa,chúng ta sẽ liên hệ một cách tự nhiên đến số lượng lớn những người đau khổ;không có cách nào tránh khỏi bị áp đảo với những nhu cầu của đám đông, một cách đặc biệt trong sự tươngphản đến một người với các tính tự hào, ngu si ấy.

11- Hãy phản chiếu: Nếu tôi, chỉ là một người, lợi dụng số đông,thật là trái ngược với tính người của tôi. Thực tế, hy sinh một trăm đô la vì lợi ích của một đô la là rất ngu ngơ,nhưng dùng một đô la vì lợi ích của một trăm đô la là rất thông tuệ.

12- Nghĩ theocách này, quyết định:

Tôisẽ hướng trực tiếp năng lượng của tôi đến nhiều người hơn là đến con người vị kỷnày. Mỗi bộ phận của thân thể được xem đồngđẳng là thân thể và được bảo vệ khỏi đau đớn; vì thế tất cả chúng sinh được bảovệ bình đẳng khỏi khổ đau.

Đốivới tôi, phương pháp thiền quán này đặc biệt hiệu quả. Rất rõ ràng rằng tất cả những rắc rối trêntrái đất này một cách căn bản là qua chủ nghĩa vị ngã và tự yêu mến riêngmình. Chúng ta có thể thấu hiểu nhữngnguyên tắc của phương pháp thiền quán này từ kinh nghiệm của riêng mình ngaytrong kiếp sống này - rằng sự tự yêu mến đưa đến ý chí tệ hại, ngay cả giết người,và yêu mến người khác đưa đến những đạo đức chẳng hạn như từ bỏ giết hại, trộmcắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời thô ác, nói lời vô ích.

Vớiphương pháp thiền quán này, ngay cả nếu chúng ta không tỉnh thức về lòng ân cầnvới người khác, chúng ta có thể học hỏi để yêu mến người khác. Hãy nhớ rằng chúng ta yêu mến chính mình mộtcách tự nhiên, không phải trong bất cứ ý nghĩa nào là chúng ta đã và đang tử tếvới chính mình. Từ chính thực tế rằngchúng ta yêu mến đời sống của mình, chúng ta muốn loại trừ khổ đau và đạt đượchạnh phúc. Trong cùng cách ấy, tất cảchúng sinh tự nhiên yêu mến chính họ, và từ điều này họ muốn xa tránh khổ đauvà đạt đến hạnh phúc. Tất cả chúng tacũng giống như thế, sự khác biệt là người khác là rất nhiều, trái lại ta chỉ làmột. Ngay cả nếu chúng ta có thể dùng tấtcả những người khác cho những mục tiêu của chính mình, chúng ta cũng sẽ không hạnhphúc. Nhưng nếu ta, chỉ là một con người,phục vụ người khác một cách trọn vẹn như chúng ta có thể làm, hành động này sẽmột nguồn gốc của niềm an vui nội tại.

Thậtdễ dàng để thấu hiểu rằng chúng ta sẽ mất mát nếu chúng ta quên lãng mọi ngườikhác qua việc quá nhấn mạnh đến chínhmình và chúng ta sẽ gặt hái rất lớn từ việc quý trọng người khác khi chúng tayêu mến chính mình. Vì những sự kiện nàyđược chứng thực bởi kinh nghiệm của chính chúng ta. Tôi thấy rằng phương pháp thiền quán này có mộttác động rất lớn.

Hãytiếp nhận những sự thực tập này vào trong trái tim và chúng ta dần dần sẽ trởnên ít vị kỷ hơn và có sự tôn trọng hơn với người khác. Với một thái độ như vậy, từ ái và bi mẫn thậtsự có thể lớn mạnh.

TÓM LƯỢC

Nhiềuloại ý thức giá trị phát sinh từ nhận thức căn bản, tự nhiên, và rõ ràng. Tất cả chúng ta có một cái "tôi" bẩmsinh, mặc dù nếu chúng ta cố gắng để xác định vị trí của cái "tôi"này, nhưng chúng ta gặp phải nhiều khó khăn. Ý nghĩa này của cái "tôi" cho chúng ta một sự khát vọng hợp lýđến hạnh phúc và một mong ước không khổ đau.

Cónhững trình độ khác nhau của hạnh phúc và những loại khổ đau khác nhau. Những thứ vật chất thường đáp ứng đến hạnhphúc thân thể, trái lại sự phát triển tâm linh đáp ứng đến hạnh phúc tâmlinh. Vì cái "tôi" của chúngta có hai khía cạnh - thân thể và tinh thần - chúng ta cần một sự phối hợp bấtkhả phân của tiến trình vật chất và tiến trình nội tại hay tâm linh. Việc cân bằng những thứ này là thiết yếu đểkhai thác tiến trình vật chất và sự phát triển nội tại cho sự tốt đẹp của xã hộiloài người.

Sơđồ cho sự phát triển thế giới phát sinh từ mong ước này để đạt được hạnh phúcvà giải thoát khổ đau. Nhưng có nhữngtrình độ cao hơn của hạnh phúc vượt khỏi những hình thức trần tục này, mà trongấy chúng ta tìm cầu điều đấy cho mục tiêu dài hạn không chỉ hạn chế trong kiếpsống này. Giống như chúng ta cần một nhậnthức sâu rộng có thể bảo vệ môi trường, chúng ta cần một nhận thức nội tại thâmsâu mở rộng đến những kiếp sống tương lai.

Tôithường khuyến nghị rằng ngay cả nếu chúng ta phải vị kỷ, thế thì vị kỷ một cáchthông tuệ. Những người thông tuệ phụng sựngười khác một cách chân thành, đặt những nhu cầu của người khác bên trên chínhmình. Kết quả căn bản sẽ là chúng ta sẽhạnh phúc hơn. Những loại vị kỷ đưa đếnđánh nhau, giết chóc, trộm cắp, và sử dụng lời thô ác - quên lợi ích người khác,luôn nghĩ về chính mình, "tôi, tôi, tôi" sẽ đưa đến kết quả trong sựmất mát của chính mình. Những người kháccó thể nói những lời đẹp đẽ trước mặt chúng ta, nhưng sau lưng chúng ta họ sẽnói những lời không đẹp.

Sựthực tập vị tha là một cung cách xác thực để hướng dẫn đời sống nhân loại vàkhông chỉ giới hạn trong tôn giáo. Cốtlõi sự tồn tại của chúng ta là, như những con người, chúng ta sống những đời sốngcó mục tiêu và đầy đủ ý nghĩa. Mục tiêucủa chúng ta là để phát triển một trái tim nồng ấm. Chúng ta thấy ý nghĩa trong việc là một ngườithân hữu đến mọi người. Cội nguồn duy nhấtcủa hòa bình trong gia đình, xứ sở, và thế giới là lòng vị tha - từ ái yêuthương và bi mẫn ân cần.

Nguyêntác: Love as the basic of human rights
ẨnTâm Lộ ngày 14-3-2012
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2021(Xem: 5218)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5371)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5843)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4691)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5283)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4870)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5515)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 5024)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9770)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 5376)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]