Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Đặc tính giáo dục của Phật giáo

11/04/201100:49(Xem: 17278)
2. Đặc tính giáo dục của Phật giáo

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

Thích Hạnh Bình

PHẦN 1

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

2. Đặc tính giáo dục của Phật giáo

Với chủ đề về vấn đề giáo dục của Phật giáo, có hai nội dung chúng ta cần quan tâm là: 1.Tinh thần giáo dục của đức Phật. 2.Hình thức giáo dục của đạo Phật. Đây là hai vấn đề chính mà chúng ta sẽ thảo luận trong tiết mục này.

2.1. Tinh thần giáo dục

Cho dù chúng ta đứng từ góc độ nào nhìn về đức Phật đều có nhận định chung rằng: Sự ra đời của Ngài chỉ có một mục đích duy nhất là mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho chúng sanh. Muốn thành đạt sự giác ngộ giải thoát này, chúng sanh cần phải ngang qua những phương pháp tu tập, huấn luyện thân và tâm, làm chấm dứt những nguyên nhân gây ra khổ đau cho con người trong đời sống hiện tại và mai sau. Chúng ta có thể gọi đây là tinh thần hay mục đích giáo dục của đạo Phật, nó không giới hạn chỉ có trong Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái hay Phật giáo Đại thừa, vì đó là tinh thần chung của đạo Phật, được chứa đựng trong Tam Tạng kinh điển, bao gồm trong 2 hệ kinh điển Nam và Bắc truyền.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, ở đây chúng ta có thể trích dẫn một vài ví dụ điển hình để cho chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn. Trước hết trong kinh điển Nam truyền “Kinh Tương Ưng Bộ”, đức Phật dạy:

Vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người…[4]

Cũng trình bày ý nghĩa này, “Kinh Tăng Chi” đức Phật lại nói rõ hơn:

Một người, này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác…[5]

Một ví dụ khác, ‘Phẩm Tựa’ trong “kinh Diệu Pháp Liên Hoa” là kinh điển của Phật giáo Đại thừa đức Phật cũng nói:

Chư Phật Thế Tôn chỉ vì nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, đó là vì muốn cho chúng sanh khai… thị…ngộ… nhập… tri kiến Phật mà sinh ra ở đời.[6]

Qua những lời trích dẫn cụ thể vừa nêu trên, chúng ta thấy cả hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Tiểu Thừa và Đại Thừa đều ghi nhận, mục đích ra đời của đức Phật chính là mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho chúng sanh, hay nói một cách khác, sự ra đời của đạo Phật là mang lại sự hạnh phúc và an lạc cho con người. Đây chính là ý nghĩa mà Bà la môn ÀrŒmadaöda đứng trước tôn giả KaccŒna đã bày tỏ tâm tư của mình về đức Thế tôn như sau:

Thật vi diệu thay, thưa tôn giả KaccŒna! Thật vi diệu thay, thưa tôn giả KaccŒna! Như người dựng đứng lại những gì đã quăng ngã xuống, thưa tôn giả KaccŒna, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc…con xin qui y tôn giả Gotama…[7]

Ở đây, chúng ta hiểu như thế nào về trường hợp gọi là phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc. Nội dung và ý nghĩa câu nói này, ngoài ý nghĩa kaccŒna nói lên lời ca tụng lời dạy của đức Phật, còn mang ý nghĩa chỉ trích về lối giáo dục mơ hồ của những tôn giáo khác, vạch trần một thể chế chính trị bưng bít và độc quyền của giai cấp Bà la môn. Vì giai cấp thống trị đã phân chia xã hội thành bốn giai cấp (Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá và Thủ đà la). Hai giai cấp đầu Bà la môn và Sát đế lợi là những người thuộc dòng dõi Bà la môn vốn là giống dân Aryan - ngoại quốc muốn giữ quyền cai trị đất nước, còn lại hai giai cấp Phệ xá và Thủ đà la là hai giai cấp của người thổ dân, chỉ biết làm lụng phục vụ cho hai giai cấp trên; nhất là giai cấp Thủ đà la là giai cấp nô lệ, họ không có quyền yêu cầu bất cứ điều gì, ngay cả quyền được tu tập, mong kiếp sau được chuyển đổi giai cấp nô lệ của mình, thành giai cấp tốt đẹp hơn, thế nhưng điều đó cũng không thành, vì đó là số phận đã được Phạm Thiên an bài. Thật sự mà nói, trước một thể chế khắc nghiệt như vậy, họ tưởng chừng như không bao giờ có cuộc sống an lạc và hạnh phúc, đời đời kiếp kiếp vẫn làm thân phận của người đầy tớ cho kẻ khác, mặc dù họ sống với tâm tư lương thiện, muốn sửa đổi đời sống, thân phận thấp hèn của mình. Có thể nói, đó là đường hướng giáo dục đen tối, làm cho con người càng ngày càng ngu muội, với ý đồ muốn cho những người bị trị chấp nhận thân phận của mình, đây là chính sách giáo dục ngu dân. Có lẽ đây chính là lý do tại sao sau khi nhà vua Asoka thống nhất đất nước, nhà vua không lấy những tôn giáo truyền thống Ấn Độ làm quốc giáo mà lại lấy Phật giáo làm quốc giáo.

Đức Thế Tôn đã đứng từ lập trường con người với khối óc và suy tư của con người, Ngài vận dụng chân lý duyên khởi để bẻ gãy lý thuyết ‘Phạm ngã đồng nhất thể’ của giai cấp bà la môn, đồng thời Ngài sử dụng trái tim của con người, nêu cao tinh thần thương yêu đồng loại, đả phá chế độ phân chia giai cấp, nên Ngài đã làm được điều đó. Giả dụ, nếu chúng ta là người kém phước sinh ra làm kẻ nô lệ của xã hội đó, chúng ta sẽ nghĩ như thế nào về sự ra đời của đức Phật, phải chăng như ÀrŒmadaöda đã nói: Phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc. Từ sự kiện này, chúng ta có thể nói đây là một trong những mặt đóng góp tích cực của đức Phật cho con người và xã hội mà chúng ta hiểu và nắm bắt được. Trong sự nghiệp giáo dục của Ngài còn biết bao nhiêu sự kiện mà chúng ta chưa phát hiện và thực nghiệm được, như là sự giác ngộ và giải thoát.

Như vậy, mục đích ra đời của đức Phật là mang lại cho con người sự hạnh phúc và an lạc. Thế thì điều đó có ý nghĩa là tinh thần giáo dục của Phật giáo lấy sự giác ngộ và giải thoát làm mục đích, cho dù đó là Phật giáo Tiểu thừa hay Đại thừa, Bắc tông hay Nam tông. Dù cho chúng ta có nhân danh Phật giáo nào đi chăng nữa, nhưng nếu đời sống sinh hoạt cá nhân hay tập thể không có liên hệ đến sự giác ngộ và giải thoát, ngược lại đời sống ấy ẩn chứa những mầm mống bất thiện, có xu hướng đọa lạc, liên hệ với lòng dục lòng dục sân hận và ngu si, thì sinh hoạt đó, đời sống đó không thể gọi là Phật giáo. Đây là điểm mà chúng ta cần chú ý.

Sự ra đời của đạo Phật giáo vốn là vì con người và xã hội mà phục vụ, không phải Phật giáo sinh ra đời để con người phục vụ đạo Phật. Nếu như ý nghĩa này được chấp nhận thì vấn đề Phật giáo có những nhu cầu về vật chất, chúng ta nên xem nó như là phương tiện hữu ích và có ý nghĩa giúp cho con người mau chóng thành đạt mục đích mà đạo Phật đã đề ra, không nên xem những cơ sở vật chất như là sự thành tựu của đạo Phật, ý nghĩa này như đã được đức Phật chỉ dạy trong ‘Kinh Thừa tự Pháp’ “Kinh Trung Bộ” tập 1.

2.2. Hình thức giáo dục

Nói đến giáo dục là nói đến đối tượng giáo dục, đối tượng mà Phật giáo dục là CON NGƯỜI. Như chúng ta đã biết, giáo pháp mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là chân lý của sự sống, không phải là lý thuyết suông, cũng phải là vật để tôn thờ, tụng đọc hằng ngày, không liên hệ gì với cuộc sống. Giáo lý đó Ngài không có ý định dành riêng cho bất cứ ai, mà cho tất cả những ai muốn được giác ngộ và giải thoát, tất cả con người đều là đối tượng được đức Phật giảng dạy và trao truyền, ở bất cứ đâu và thời gian nào. Thế nhưng, chúng sanh căn tánh không đồng, nghiệp lực không giống nhau, cho nên Ngài đã dùng nhiều pháp môn khác nhau, để hướng dẫn chúng sanh ấy hướng đến giác ngộ. Có nghĩa là tùy theo tính đặc thù của mỗi đối tượng Ngài trình bày giáo pháp khác nhau, do vậy nội dung lời giảng dạy của Ngài cũng khác nhau. Sự khác biệt này nói lên tính bất đồng của chúng sanh, không phải là sự bất bình đẳng trong đạo Phật.

Quan điểm này, chúng ta rất thường gặp trong hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa. Ví như ‘Phẩm Phương Tiện’ trong “Kinh Pháp Hoa” là một ví dụ điển hình; và ‘Kinh Nhiều Cảm Thọ’ trong “Kinh Trung Bộ” đức Phật cũng nói lên ý nghĩa này như sau:

Này Ananda, vì pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn như vậy, nên đối với những ai không chấp nhận, không tán đồng, không tùy hỷ những điều được khéo nói, khéo thuyết, khéo trình bày cùng nhau, thời sự kiện này sẽ xảy ra: họ sẽ sống đấu tranh, khẩu tranh, luận tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi. Như vậy, này Ananda pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn. Này Ananda, vì pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn như vậy, nên đối với những ai chấp nhận, tán đồng, tùy hỷ những điều được khéo nói, khéo thuyết, khéo trình bày cùng nhau, thời sự kiện này sẽ xảy ra: họ sẽ sống hòa hợp, tán đồng, tùy hỷ với nhau, như nước với sữa, và nhìn nhau với cặp mắt tương ái..[8]

Ở đây, đức Phật nói: ‘ta thuyết giảng tùy theo pháp môn’ có ý nghĩa là đức Phật nói pháp không phải tùy tiện, mà phải căn cứ vào trình độ và sự hiểu biết của đối tượng và nhất là trình bày vấn đề đó trong trường hợp nào. Do vậy, sự trình bày này chỉ có giá trị đối với đối tượng đó và trong trường hợp đó và có thể sẽ không có giá trị trong trường hợp khác, với đối tượng khác. Để hiểu rõ hơn, chúng ta có thể lấy một ví dụ cụ thể trong “ Kinh Trung bộ”; có hai kinh đức Phật nói về nghiệp, đó là ‘Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt’ (Cèla kamma vibhanga sutta) số 135[9](viết tắt là TNPB) và ‘Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt’ (MahŒ kamma vibhanga sutta) số 136[10] (viết tắt là ĐNPB) nhưng đức Phật trình bày nội dung tư tưởng của hai kinh này khác nhau. Trong kinh TNPB, đức Phật dùng những hình ảnh tốt và xấu của thế gian, để giải thích mối quan hệ nhân quả trong đạo Phật, chẳng hạn như nói người bố thí thì được giàu có, người sát sinh thì có cuộc sống ngắn ngủi v.v..; có nghĩa là lấy sự giàu có, sống lâu làm thước đo hạnh phúc đồng thời xem sự nghèo khổ, đời sống ngắn ngủi làm tiêu biểu cho sự bất hạnh. Nếu đó là sự thật thì chúng ta thử đặt vấn đề, phải chăng người nào giàu có sống lâu là người ấy có hạnh phúc còn người nghèo khó, có đời sống ngắn ngủi là người không có hạnh phúc? Thực tế của cuộc sống không hẳn là như thế nhưng tại sao trong kinh này đức Phật lại giải thích như vậy? Phải chăng do vì con người ham thích sự giàu sang, sống trường thọ... cho nên đức Phật đã dựa và đó để lý giải đạo lý nhân quả, tạo niềm tin cho những hạng người này? Đây là một trong những vấn đề giáo dục mà chúng ta cần phải tìm hiểu.

Với kinh ĐNPB thì lại khác, đức Phật lấy vai trò ‘chánh kiến’ và ‘không chánh kiến’ làm thước đo cho hạnh phúc và không hạnh phúc của con người. Trong kinh này đức Phật giải thích, người nào có chánh kiến là người đó có hạnh phúc, và ngược lại người nào không có chánh kiến thì người đó sống trong đau khổ. Như vậy, vô minh là nhân của khổ đau, hạnh phúc là quả của đời sống có trí tuệ. Đây chính là mối quan hệ nhân quả nghiệp lực mà đức Phật muốn giải thích. Tại sao có sự sai khác này? Nếu chúng ta không để ý đối tượng mà đức Phật giáo dục thì chúng ta khó lý giải được vấn đề. Đối tượng mà đức Phật nói trong kinh TNPB là thanh niên Subha Todeyyaputta, là một cư sĩ tại gia, không am tường Phật pháp. Do đó, đức Phật không thể dùng những giáo pháp cao sâu, mà chỉ vay mượn những hình thức bên ngoài, như là giàu sang, tuổi thọ..., những gì mà Subha có thể hiểu được. cho nên đức Thế Tôn đã giảng giải nghiệp lực mang ý nghĩa như vậy. Nhằm khuyến khích chúng sanh làm điều lành lánh xa điều dữ, bỏ tà qui chánh, cho nên đức Phật đã giảng nội dung kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, nhưng ngược lại, đối tượng đức Phật nói kinh ĐNPB là tôn giả A Nan và các vị tỷ kheo, là những người thông minh, am hiểu Phật pháp, cho nên đức Phật đã giải thích nghiệp lực căn cứ vào chánh kiến giải thích. Đó là lý do tại sao đức Phật nói nội dung hai kinh khác nhau.

Cũng vậy, trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa thường được ghi chép rằng, khi đức Phật nói kinh điển Đại thừa thì các hàng Tiểu thừa Thinh văn liền rời khỏi pháp hội. Hiện tượng này, không những biểu lộ sự bất đồng về quan điểm giữa Đại thừa và Tiểu thừa, mà còn nói lên trình độ tu chứng và sự hiểu biết khác nhau. Có lẽ đây là lý do tại sao trong “Luận Đại Trí Độ” Bồ Tát Long Thọ (NŒgŒrjuna) đã đề cập đến Tứ Tất đàn (SiddhŒnta), là bốn phương pháp giáo dục khác nhau của Phật giáo Đại thừa. Thứ nhất là Thế giới tất-đàn, có nghĩa là căn cứ vào sự ưa thích của chúng sanh, nói những pháp gì làm cho họ cảm thấy vui vẻ để dắt dẫn chúng sanh vào đạo. Thứ hai, Các vị nhân tất-đàn, nhằm đáp ứng và thích nghi căn tánh và trình độ không đồng của chúng sanh mà nói những pháp khác nhau. Thứ ba, Đối trị tất-đàn, có nghĩa là y cứ vào căn tánh cá biệt của mỗi chúng sanh, nói những pháp tương xứng để đối trị, như người có lòng sân hận, nói pháp từ bi cho họ. Thứ tư, Đệ nhất nghĩa tất-đànlà trình bày chỉ rõ thật tướng của các pháp, cho chúng sanh giác ngộ chân lý.

Nói tóm lại, tứ tất-đàn là bốn phương pháp giáo dục khác nhau của Phật giáo. Có nghĩa là tùy theo căn cơ trình độ hay bối cảnh xã hội khác nhau của con người mà đạo Phật hình thành phương pháp giáo dục khác nhau, để thích nghi với từng con người và từng xã hội khác nhau. Sự hình thành bốn phương pháp này không phải là sự vụ lợi cho Phật giáo mà là sự lợi ích cho chúng sanh và xã hội. Ở đây, chúng ta nên lưu ý rằng bất cứ hình thức giáo dục nào cũng chứa đựng ý nghĩa dẫn dắt chúng sanh hướng đến mục đích giác ngộ và giải thoát, nếu như mục đích này mất đi thì phương pháp giáo dục đó, không được xem là của đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2014(Xem: 17118)
Vu Lan báo hiếu lại về, Khắp nơi phật tử nhất tề dâng hương. Người người già trẻ bốn phương, Lên cầu cho mẹ, mến thương hết lời. Cửa chùa mở rộng đón mời, Hỏi thăm hiền mẫu trên đời còn không, Mẹ còn, chùa lấy hoa hồng, Cài lên vạt áo, cho lòng thêm tươi. Người nào mẹ đã qua đời, Thì cài hoa trắng, gửi lời nhớ thương.
05/08/2014(Xem: 7025)
Bạn nghe tiêu đề và thấy vô lý quá đúng không. Tôi cũng thế, nếu tôi chỉ đọc tên bài viết này thì cũng giật mình vì cho rằng có vấn đề. Rồi thấy buồn cười. Hằng ngày chúng ta suy nghĩ, nói năng, làm việc liên tục không ngừng nghỉ. Từ sáng sớm đến đêm khuya. Ngay cả khi ngủ chúng ta cũng không nghỉ. Hằng ngày, khi chúng ta làm việc mà nếu tâm vẫn trong sạch, không mọc rễ, thì khi đó ta đã đưa tâm về nhà. I have a rrived. I am home. Ta đã về. Ta đã tới. Nhưng nếu ta làm cái gì đó rồi tâm ta mọc rễ thì ta đã đưa tâm đi xa nhà. I am far from my home. Ta đã đi xa nhà mất rồi, thật rồi.
01/08/2014(Xem: 9220)
Bạn bè tôi thường hay đùa nhau nói: giày dép còn có số huống chi con người ta. Tôi biết, đó là bạn bè đùa vui thôi! Cuộc đời tôi thì có gắn bó nhiều với những câu chuyện về giày dép. Có bạn còn nói: cái mũ người ta đội trên đầu mới đáng nói hơn, nói chi lòng vòng mấy cái chuyện giày chuyện dép, chỉ là món đồ dùng người ta mượn để đạp dưới đất mà đi. Thì cũng có sao đâu! Cái mũ đội trên đầu thấy „cao thượng“ nhưng lúc lỡ quên mang theo thì mình có thể chui vào đâu đó tránh nắng hay dùng khăn chùm đầu cũng đỡ lạnh. Nhưng giày dép mà vắng mặt thì… bạn ơi, có hơi chật vật đấy! Sỏi đá, gai góc vào chân thì chỉ có khóc thôi. Phải vậy không? Ai từng gặp cảnh ấy mới biết. Bởi nghĩ thế nên mấy cái chuyện giày chuyện dép ấy nó cứ đeo đuổi theo tôi nhiều năm, đến hôm nay mới có dịp kể ra đây.
31/07/2014(Xem: 7354)
Máy bay cất cánh từ phi trường Kastrup, Copenhagen lúc 20 giờ 30 tối, trong đầu tôi vẫn còn nỗi lo là mình đến phi trường Geneva lúc 22 giờ 25 rồi có gặp được các học viên của Khóa Tu Học Phật Pháp, hay có ai đến đón chúng tôi không? Như Thầy Quảng Hiền đã trấn an không?
30/07/2014(Xem: 6837)
‘Bạch Thế Tôn, mới rồi, một gia chủ giàu có ở thành Savatthi này qua đời mà không có con thừa kế. Con vừa cho chuyển tài sản của ông ta vào kho của hoàng cung; những tám triệu đồng tiền bằng vàng chưa kể số tiền bằng bạc. Mặc dù là một gia chủ giàu có, thế nhưng bữa ăn hằng ngày của ông ta thì chỉ là cháo nấu bằng gạo nát với bánh làm bằng đậu khô; y phục vỏn vẹn chỉ có ba mảnh vải dệt bằng sợi gai; phương tiện di chuyển là chiếc xe bò gãy gọng nóc lợp bằng rơm’.
29/07/2014(Xem: 8812)
Thông thường làm từ thiện, ai cũng liên kết với lòng Từ bi. Thấy ai làm từ thiện đều nghĩ người đó có tâm từ. Thật ra, cùng một động thái nhưng nội hàm có nhiều sai biệt. Có người vì xu hướng mà làm từ thiện, có người vì ham danh mà làm từ thiện, có người chạy theo phong trào mà làm từ thiện...những trường hợp nầy thiết nghĩ không cần phải đề cập, cái cần đề cập là những người thực tâm vì thương xót đối tượng mà làm từ thiện. Trường hợp nầy hoàn toàn đồng ý đây là tâm tốt, nhưng tốt đối với người bình thường trong xã hội, riêng với một Phật tử dù xuất gia hay tại gia, việc hành thiện còn phải xây dựng trên nền tảng tâm Bồ đề.
29/07/2014(Xem: 8756)
Tất cả chúng ta đều có thể bị bệnh. Một khi chúng ta được sinh ra trong vòng luân hồi sinh tử với thân thể này thì có nghĩa là chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những phiền não và nghiệp chướng, cho nên bị ốm đau là điều không thể nào tránh khỏi. Đó cũng chính là bản chất của cơ thể chúng ta - thân thể này sẽ già đi và sẽ bị bệnh. Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b)
24/07/2014(Xem: 10597)
Hôm nay chúng tôi xin nói đề tài Ba điều căn bản của người tu Phật. Vì chúng ta tu Phật phải biết thế nào là cội gốc, thế nào là ngọn ngành. Ba điều này tôi căn cứ theo kinh Pháp Hoa, nhắc lại cho quí vị nhớ và thực hành.
22/07/2014(Xem: 9704)
Hoà thượng Chánh Tâm trụ trì ở chùa Kim Liên. Một ngôi chùa cổ, xinh xắn, ấm cúng, nhiều cây cổ thụ bao quanh. Chùa toạ lạc dưới chân núi, cạnh một con suối nhỏ chảy róc rách. Ngài có hai đệ tử, thầy tỳ kheo Tâm An và chú sa di Tâm Bình. Thầy Tâm An xuất gia từ thuở ấu thơ, vì mồ côi mẹ sớm. Thầy lớn hơn chú Tâm Bình đến hai mươi tuổi. Thầy đảm trách hai chức vị, Thị giả và Tri khách, nghĩa là vừa chăm sóc Hoà thượng, vừa lo việc trong, việc ngoài ở chùa. Thầy bận rộn suốt ngày, nhưng lúc nào cũng tươi cười vui vẻ. Chưa bao giờ ai thấy Thầy sân si. Thầy luôn luôn giữ phép lục hoà, trên kính, dưới nhường, làm mọi việc trong chánh niệm tỉnh giác, cần mẫn tinh tiến trong việc tu học. Sau công phu tối, Thầy thường toạ thiền dưới gốc cây cổ thụ bên bờ hồ sau chùa. Từ khi còn thơ ấu, Thầy đã được sự dìu dắt dạy bảo ân cần của Thầy Bổn Sư.
21/07/2014(Xem: 10543)
Những món thực phẩm dưới đây rất quen thuộc và bổ dưỡng. Nhưng nếu ăn không đúng cách thì hậu quả mà chúng đem lại cũng khôn lường.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]