Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Suy nghĩ từ một chuyến đi

24/02/201109:04(Xem: 5011)
16. Suy nghĩ từ một chuyến đi

VIẾT CHO CON GÁI
Lại Thế Luyện - Kim Phụng

Suy nghĩ từ một chuyến đi

Ngày ... tháng ... năm ...
Con gái yêu của cha!
Trời đã về chiều, chuyến xe đò tốc hành ngột ngạt hơi người vẫn đang tiếp tục lăn bánh về vùng đất miền duyên hải. Từ xa xa, qua cửa kính xe, trước mắt cha những đám mây đen kịt đang phủ kín bầu trời, báo hiệu cơn mưa lớn có thể ập xuống bất cứ lúc nào.
Người bạn học cùng lớp với cha ngày xưa, đang ngồi trên xe bên cạnh chỗ cha, ghé tai bảo: vào những ngày mưa như thế này, tai nạn xe cộ ở đây thường hay xảy ra lắm. Trước chuyến đi, cha không thể ngờ rằng lâu nay người bạn của mình phải sống trong những hoàn cảnh hiểm nguy, khó khăn đến như vậy!
Đây là chuyến đi công tác xã hội đầu tiên của cha đến thăm vùng đất miền duyên hải này. Mọi thứ đối với cha đều rất ngỡ ngàng, mới lạ. Chiếc xe vẫn tiếp tục gầm rú để lấy sức mình vượt qua đèo. Ngồi trên xe, cha bồi hồi nhớ lại lớp học của mình ngày xưa ở trường đại học sư phạm. Cha còn nhớ, lớp tâm lý - giáo dục của mình hồi đó có gần bốn mươi sinh viên, xuất thân từ nhiều tỉnh thành khác nhau. Sau khi ra trường, mỗi đứa đi cũng theo một ngả khác nhau. Riêng người bạn của cha đã quyết tâm chọn mảnh đất miền duyên hải làm quê hương thứ hai của mình, nguyện gắn bó suốt đời cho công việc giáo dục những trẻ em bị khuyết tật ở đây.
Xe dừng lại, trước mắt cha hiện ra hình ảnh của trường khuyết tật. Ngôi trường nhỏ bé, đơn sơ, nằm vắng lặng một mình trên đồi dốc, hoàn toàn khác hẳn so với hình ảnh bề thế, khang trang của một trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật mà trong suốt chuyến đi cha đã tự vẽ ra trong đầu óc của mình.
Cha và người bạn khệ nệ vác hành lý, men theo một con dốc ngoằn nghèo, nhỏ hẹp để vào trường. Đường dốc bị mòn, rất trơn , chỉ cần sơ ý một chút là có thể bị té ngã bất cứ lúc nào. Đến đây, cha mới thực sự hiểu được cuộc sống những đồng nghiệp của mình đang phải đương đầu với những nỗi vất vả, khó khăn trong nghề nghiệp và cuộc sống như thế nào.
Sân trường vẫn đang còn ngổn ngang những mảnh tường, gạch vụn đổ nát bề bộn. Trò chuyện với mọi người ở đây, cha mới biết, trước khi cha đến đây chỉ một tuần thôi, những cơn mưa như trút đã làm sụt móng một góc sân trường, khiến một phần bức tường bị đổ sập. Phòng ở dành cho giáo viên thì chật ních, vì các thầy phải dồn lại ở chung, nhường phòng cho các em học. Nhà để ở còn chưa có thì nói gì đến nhà bếp. Những buổi trời nắng, giáo viên phải nấu cơm ngoài trời. Những ngày trời mưa to, bếp lò được khiêng vào nấu cơm luôn trong phòng ở, khói bụi than tro cứ bay mịt mù... Dù biết như vậy là khổ, nhưng họ cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác, chẳng còn biết làm cách nào khác!
°°°
Càng trò chuyện với các bạn đồng nghiệp, cha càng nhận ra những niềm ước mong thầm lặng từ trong đáy mắt họ. Phần lớn các thầy cô chỉ mong sao có nơi ăn chốn ở ổn định hơn một chút, để trong lòng vơi bớt những đi những nỗi lo toan đời thường, từ đó họ có thể tận tâm tận lực nhiều hơn cho công việc giáo dục. Thế nhưng, niềm ước mơ giản dị và hết sức chính đáng ấy, đối với họ, vẫn chỉ là những điều còn xa vời vợi. Những khó khăn đời thường vẫn cứ từng ngày từng giờ không ngừng đeo bám họ.
Vừa nói chuyện, cha vừa thầm nghĩ hững đồng nghiệp của tôi ơi! Tôi thầm cảm phục khi nhìn thấy các bạn vẫn âm thầm, miệt mài với công việc của mình. Các bạn vẫn yêu nghề, mến trẻ mà kiên trì gắn bó với trường, với lớp...
Con không thể hình dung nổi đâu, công việc của người giáo viên dạy trẻ khuyết tật hết sức vất vả, đa đoan, nhưng giáo viên ở đây chẳng có ai so đo tính toán công sức mình đã bỏ ra. Mỗi ngày, từng giáo viên không chỉ có nhiệm vụ giúp các em phục hồi chức năng, còn phải đồng thời dạy văn phổ thông, phát hiện năng khiếu của từng em để cho các em học nghề phù hợp; ngoài ra, còn phải lo cho mỗi em một ngày ba bữa ăn, chú trọng vệ sinh môi trường xung quanh trường học...
Dù hoàn cảnh sống còn rất nhiều khó khăn, nhiều đồng nghiệp của cha vẫn tìm mọi cách tạo cho các em học sinh khuyết tật có đủ điều kiện học tập: thư viện phục vụ sách nói, phòng phục hồi thể chất, phòng học nhạc... Thậm chí, họ có thể chắt chiu cả số tiền lương ít ỏi tháng của mình để về thành phố mua sắm thêm những đồ dùng, phương tiện dạy học. Điều đáng nói là, nhiều giáo viên còn chưa được đào tạo bài bản về những kiến thức chuyên môn liên quan đến vấn đề giáo dục trẻ khuyết tật, vậy mà các thầy cô vẫn kiên trì vượt bao khó khăn, nỗ lực tự học, tìm tòi nhiều biện pháp giảng dạy phù hợp, sao cho các em học sinh khuyết tật có thể tiếp thu nhanh...
°°°
Chuyến đi thăm trường trẻ khuyết tật để lại trong cha rất nhiều suy nghĩ. Khi tận mắt nhìn thấy những khó khăn mà đồng nghiệp của mình đang phải chịu đựng, tận mắt chứng kiến những điều tốt đẹp mà những đồng nghiệp của mình đã làm được, cha cảm thấy thật xấu hổ với chính lương tâm mình. So với các đồng nghiệp của mình, cha may mắn nhiều hơn họ. Nhưng lâu nay, cha đã làm được điều gì tốt đẹp trong phạm vi nghề nghiệp của mình chưa? Là giảng viên đại học ở thành phố, lâu nay cha nào đã hiểu hết được những khó khăn, nhọc nhằn, những nỗi thiệt thòi, vất vả ở miền quê xa mà bạn bè, đồng nghiệp của mình bao năm qua vẫn âm thầm chịu đựng? Cùng làm việc trong sư phạm, nhưng cha đã làm được điều gì hữu ích cho những trẻ em khuyết tật, thiếu may mắn kia?
Con thấy không? Cuộc sống quanh ta còn biết bao chuyện buồn khổ, những mảnh đời bất hạnh. Người trí thức có lương tri là những người phải biết quan tâm, suy nghĩ về những điều đó. Và trong khả năng của mình, phải góp phần làm giảm thiểu những khổ đau, bất hạnh của cuộc sống. Chính từ thực tế cuộc sống mà mỗi chúng ta biết xác định những gì tốt nhất mình có thể làm, để góp sức mình cho cuộc sống...
Hôm nay, cha rất mừng khi được trở về nhà, được sống bên mẹ và các con. Đêm đã khuya, nhưng những ý nghĩ trăn trở vẫn khiến cha không làm sao chợp mắt được. Cha vẫn ngồi lặng lẽ nơi bàn viết trong thư phòng, mắt nhìn ra cửa sổ ngoài vườn. Mọi vật đều chìm trong cảnh tĩnh lặng, im lìm. Trong khung cảnh này, cha lại càng nhớ về trường khuyết tật ở miền duyên hải, nơi những người bạn đồng nghiệp của cha đang vất vả, hy sinh tận tụy ngày đêm...
Một cảm giác buồn nhè nhẹ, dịu dàng len vào tâm hồn cha. Trong những khoảnh khắc hiếm hoi của đêm yên tĩnh như thế này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy lòng mình nỗi khát khao được hướng đến những điều gì đó tốt đẹp hơn cho cuộc sống. Những gì là tầm thường, thấp kém, xấu xa, đáng bị loại bỏ và tất cả những gì êm đẹp, tốt lành đang được mọc lên từ chính mảnh đất tâm hồn mình...
Chuyến đi này là dịp để cha bình tâm suy nghĩ lại và quyết tâm mình sẽ phải thực sự tạo nên bước ngoặt đáng nhớ trong nghề nghiệp của mình!
Con gái yêu! Sau này, khi có dịp, mỗi lần đi công tác xã hội, cha nhất định sẽ cho con đi theo để con hiểu thêm về thực tế cuộc sống. Và nhất là khi cha đã cao tuổi rồi, không còn đi lại được nhiều nữa, thì chính con – và cả anh trai con nữa – sẽ là những người tiếp tục làm công việc từ thiện mà cha đang nỗ lực làm hôm nay!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4926)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5041)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4419)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4083)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4673)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4136)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3573)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6850)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6923)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5018)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]