Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Mục đích của công việc

22/02/201112:05(Xem: 7288)
1. Mục đích của công việc

GIỌT MỒ HÔI THANH THẢN
Nguyên Minh

Mục đích của công việc

Tất cả chúng ta đều phải làm việc. Tuy nhiên, mỗi người có thể nghĩ về mục đích của công việc theo một cách khác nhau, và điều này tùy thuộc vào loại công việc đang làm cũng như vai trò, vị trí ta đang nắm giữ trong xã hội. Nhưng yếu tố quan trọng hơn hết chính là nhận thức của bản thân chúng ta về ý nghĩa của công việc mình đang làm. Bởi vì, chỉ cần ta nhận thức khác đi về ý nghĩa của công việc đang làm, thì ngay lập tức ta sẽ thấy mục đích của công việc ấy cũng thay đổi khác đi.

Một người làm công có thể chỉ xem công việc của mình chỉ là một phương tiện để kiếm sống. Bao lâu mà người chủ thuê còn chấp nhận trả lương cho anh ta theo mức bình thường thì anh ta sẽ tiếp tục công việc của mình mà không cần quan tâm suy nghĩ đến những ý nghĩa khác của công việc đó. Xuất phát từ nhận thức này, mọi quan hệ của anh ta với công việc, với người chủ thuê, với bạn đồng nghiệp... sẽ chỉ là xuất phát từ nhu cầu tiền bạc. Và ý nghĩa công việc làm của anh ta không gì khác hơn là một phương tiện để kiếm tiền.

Nhưng nếu có một hôm người ấy chợt nhận ra và thay đổi nhận thức về công việc. Anh ta có thể sẽ thấy là cách nghĩ trước đây của mình thật hẹp hòi và không đúng với sự thực. Bởi vì trong thực tế thì công việc mà anh ta đang làm không chỉ mang lại tiền lương mỗi tháng, nó còn mang lại nhiều ý nghĩa khác nữa cho cuộc sống này.

Trước hết, bất cứ công việc nào cũng mang ý nghĩa phục vụ cho người khác, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp. Bởi vì chính qua việc phục vụ những người khác mà công việc mới có thể mang lại cho chúng ta tiền bạc, lợi nhuận. Như đã nói, trong mối quan hệ hai chiều giữa chúng ta và xã hội thì chính công việc là phần đóng góp của chúng ta, và tiền lương là một trong những biểu hiện cụ thể của những gì ta nhận được từ xã hội.

Khi chúng ta làm công việc sản xuất hay dịch vụ, ý nghĩa phục vụ người khác rất dễ dàng nhận biết, bởi vì luôn có những khách hàng sử dụng sản phẩm của chúng ta hoặc được chúng ta trực tiếp phục vụ. Tuy nhiên, hết thảy mọi công việc khác cũng đều không ngoài ý nghĩa phục vụ người khác. Một nhà thơ, một nhạc sĩ, hay những người làm nghệ thuật nói chung, thường không trực tiếp phục vụ cho bất cứ ai, nhưng có rất nhiều người nhận được lợi ích từ việc làm của họ. Bởi vì một bài thơ hay, một khúc nhạc êm ái, một bức tranh đẹp... tất cả đều là những nhu cầu tinh thần thiết yếu của chúng ta trong cuộc sống. Ngay cả những vị tu sĩ có vẻ như không trực tiếp làm ra gì cả, nhưng thực tế lại là những chỗ dựa tinh thần vững chắc, những tấm gương đạo đức tốt đẹp giúp tạo ra một sự quân bình cần thiết cho xã hội bon chen này. Vì thế, họ lại chính là những người phục vụ người khác nhiều nhất, và bao giờ cũng nhiều hơn những gì họ nhận được từ xã hội...

Nhận thức về ý nghĩa phục vụ người khác sẽ cho chúng ta có một cái nhìn đúng hơn về công việc mình đang làm. Một công nhân ngồi may từng chiếc áo nên nghĩ đến những người sẽ mặc chiếc áo của mình may; một người phu quét đường nên nghĩ đến niềm vui và sự thoải mái của những người được đi trên con đường sạch đẹp, cho đến người công nhân lắp máy cũng nên nghĩ đến những người sẽ được ngồi trên chiếc xe do mình lắp ráp... Cho dù bạn đang làm bất cứ loại công việc nào, tôi đoan chắc là luôn có những người khác nhận được sự phục vụ của bạn, và do đó sẽ luôn có những người khác sẽ được thoải mái hơn, vui vẻ hơn nếu bạn cố gắng làm tốt hơn công việc của mình.

Ý nghĩa phục vụ người khác không chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa chúng ta với những người sử dụng sản phẩm, dịch vụ... Ý nghĩa phục vụ còn tồn tại cả trong quan hệ giữa người làm công với người chủ thuê, giữa những nhân viên với người lãnh đạo của mình trong công việc... cho dù chúng ta thường ít khi quan tâm đến khía cạnh này.

Trong mối quan hệ bề mặt, người chủ thuê trả tiền lương để những người làm công thực hiện công việc cho họ. Vì thế, chúng ta thường nghĩ là người làm công đang phục vụ cho người chủ thuê. Tuy nhiên, nếu xét kỹ chúng ta sẽ thấy rằng cách hiểu như thế chỉ là một chiều, và do đó là chưa đầy đủ. Hãy thử đặt câu hỏi: Làm thế nào mà người chủ thuê có tiền để chi trả cho những người làm công? Rõ ràng là, để làm được điều đó, anh ta luôn phải chịu trách nhiệm về hiệu quả của công việc, về phần lợi nhuận đủ để chi trả cho tất cả những người làm công. Một người làm công chỉ cần làm xong việc là có thể tin chắc mình sẽ nhận được tiền lương, nhưng với người chủ thuê thì điều đó có vẻ không được chắc chắn như vậy. Nếu sản phẩm làm ra không tiêu thụ được hoặc phải bán với giá thấp dẫn đến thua lỗ, anh ta buộc sẽ phải bỏ tiền túi ra để bù vào khoản tiền lương cố định của những người làm công.

Như vậy, xét trong ý nghĩa này thì người chủ thuê chính là đang phục vụ những người làm công qua việc chịu trách nhiệm mang về khoản tiền lương cho từng người tương xứng với phần công việc mà họ đã làm. Chỉ khi nào anh ta làm tốt công việc phục vụ đó thì những người làm công mới có thể yên tâm không sợ bị mất việc vì sự phá sản của anh ta. Nếu thấy được ý nghĩa này, những người làm công sẽ dễ dàng hơn trong việc cảm thông với những khó khăn của người chủ thuê; và ngược lại, người chủ thuê sẽ thấy rõ hơn phần trách nhiệm lớn lao của mình, không chỉ là mối quan hệ tiền lương và công việc, mà còn có ý nghĩa phục vụ đời sống của những người làm công cùng với gia đình của họ.

Tương tự như vậy, những nhân viên trong một tổ chức khi phục tùng mệnh lệnh của người lãnh đạo không chỉ là đang phục vụ cho người ấy, mà sự thật là người lãnh đạo cũng đang phục vụ những nhân viên của mình qua việc điều hành tốt công việc của tổ chức để có thể mang lại hiệu quả cao và đưa cả tập thể đó vươn lên.

Nếu tất cả chúng ta đều nhận thức được ý nghĩa phục vụ người khác qua công việc của mình, thì điều tất nhiên là mục đích của công việc mà ta đang làm sẽ được mở rộng hơn, nâng cao hơn đúng với những giá trị thật có của nó.

Ý nghĩa thứ hai của công việc chính là sự nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau. Trong ý nghĩa này, bạn sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta đều nương tựa vào nhau để có thể tồn tại, đều giúp đỡ lẫn nhau trong việc hoàn thành công việc của mỗi người. Không có sự nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau thì không ai có thể làm được bất cứ việc gì có ích trong xã hội này.

Những người làm thuê nương tựa vào người chủ thuê để có được công việc và tiền lương, nhưng đồng thời người chủ thuê cũng nương tựa vào những người làm thuê để có được phần lợi nhuận của mình. Những người làm thuê giúp đỡ người chủ thuê thực hiện công việc để thu về lợi nhuận, nhưng đồng thời người chủ thuê cũng giúp đỡ họ có được một công việc ổn định và thu nhập thỏa đáng để nuôi sống bản thân và gia đình. Trong mối quan hệ hai chiều này, cả hai bên đều cần đến sự giúp đỡ của bên kia, đều nương tựa vào bên kia để có thể sống được.

Ngay cả trong mối quan hệ giữa những người cùng làm việc, chúng ta cũng có thể thấy được tính chất nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau. Bạn không thể thực hiện công việc một cách có hiệu quả nếu như những người đồng nghiệp luôn gây khó khăn, cản trở hoặc không làm tốt những phần việc của họ. Vì thế, khi bạn làm tốt công việc của mình thì có nghĩa là bạn cũng đồng thời giúp đỡ các bạn đồng nghiệp dễ dàng hơn trong việc thực hiện công việc của họ. Và khi bạn có thể thực hiện tốt công việc của mình thì điều đó cũng có nghĩa là bạn đã nhận được một sự giúp đỡ nhất định từ những người đồng nghiệp.

Khi nhận thức được ý nghĩa nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, mối quan hệ giữa những người đồng nghiệp, cũng như giữa người chủ thuê với những người làm công, tất cả đều sẽ được mở rộng hơn và trở nên tốt đẹp hơn đúng với những giá trị thật có. Mọi người sẽ có sự tôn trọng lẫn nhau và luôn biết ơn về những gì mà người khác đã làm cho mình. Nhờ đó, môi trường làm việc của chúng ta chắc chắn sẽ trở nên hài hòa tốt đẹp hơn, thân thiện hơn, và do đó bản thân mỗi người cũng sẽ thanh thản hơn. Và chúng ta sẽ thấy rằng mục đích của công việc mình đang làm không chỉ đơn thuần là để có được tiền lương, mà thật ra còn là một phần quan trọng trong cuộc sống, góp phần tạo nên những giá trị đích thực cho cuộc sống mỗi người.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6638)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8027)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5785)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4801)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5477)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6060)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6461)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5163)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4809)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4757)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]