Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Suy nghĩ về thế kỷ mới của người tu Phật

17/02/201114:54(Xem: 8448)
02. Suy nghĩ về thế kỷ mới của người tu Phật

NGUỒN AN LẠC
Hòa thượngThích Thanh Từ
Thường Chiếu,PL 2545 - TL 2001

02

SUY NGHĨ VỀ THẾ KỶ MỚI
CỦA NGƯỜI TU PHẬT

Giảng tại Thường Chiếu - 1998.

Nhân loại sắp bước vào thiên niên kỷ mới vớimột nền văn minh ngày càng rực rỡ. Khoa học hiện đại được xem gần như là vạnnăng, phục vụ mọi nhu cầu vật chất trong đời sống của con người. Thế nhưng, conngười đã thật sự hạnh phúc, thật sự chấm dứt khổ đau hay chưa? Ðó là điều chúngta cần phải suy gẫm.

Ðức Phật sau bốn mươichín ngày đêm thiền định dưới cội bồ-đề, khi sao Mai vừa mọc Ngài liền thànhđạo và tuyên bố: Như Lai là người đã diệt tận cội gốc vô minh, chấm dứt mọi khổđau, thật sự an vui giải thoát. Bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển là bài TứDiệu Ðế, đức Phật nói về bốn chân lý chắc thật của cuộc đời là Khổ, Tập, Diệt,Ðạo. Trong đó, khổ là một lẽ thật của cuộc đời. Mới nghe qua, chúng ta thấydường như đạo Phật thật là bi quan. Nhưng đi sâu vào, thấm nhuần giáo lý củađức Phật rồi, chúng ta thấy ngược lại. Bởi Phật nói khổ (khổ đế) là ở trên quảmà nói, vì quả là cái người ta dễ thấy dễ biết. Khi biết được quả rồi, thì Ngàiliền chỉ đến nhân. Nguyên nhân nào tạo ra quả khổ ấy (tập đế). Khi biết rõnguyên nhân rồi, chúng ta liền dẹp hết nhân (đạo đế) thì khổ nhất định sẽ khôngcòn, chừng ấy quả an vui giải thoát sẽ hiện tiền (diệt đế). Vậy vui là mục đíchđức Phật nhắm đến, khổ là chỗ đức Phật chỉ ra để chúng ta tìm lại nguyên nhân vàdẹp sạch nó đi thì quả vui sẽ đến với chúng ta.

Các nhà khoa học cũngthế, luôn luôn phăng tìm manh mối của vạn tượng sum la này; căn cứ trên quả màphăng tới nhân, không bao giờ đi từ nhân tới quả. Vì quả dễ thấy, dễ nói hơnnhân. Ví dụ bây giờ chúng ta có quả cam ngon, người thưởng thức được quả cam sẽhỏi: Quả cam này từ đâu mà có? Tự nhiên chúng ta sẽ giải thích: Từ hạt cam ươnglên, nẩy mầm, ra cây, có lá, có hoa rồi kết thành trái. Vậy quả là cái hiệnthấy, chứng minh được. Còn nhân thì đã cũ đã xưa rồi, chúng ta khó có thể chỉcho người khác thấy tường tận được. Ðó là việc cụ thể. Cho nên tinh thần Phậtdạy rất thích hợp với khoa học hiện giờ, hay ngược lại khoa học hiện giờ rấtthích hợp với tinh thần của đạo Phật. Vì thế, đạo Phật rất thực tế, luôn trungthực với cuộc đời chớ không phải bi quan yếm thế như nhiều người vẫn nghĩ.

Có thể nói, trở lạiphăng tìm cội gốc của mọi sự khổ để diệt trừ nó, sống lại với con người chânthật của chính mình là một việc làm khoa học trên khoa học. Tại sao chúng tôidám nói như vậy? Là vì khoa học tìm kiếm phát minh về vật chất để phục vụ chocon người vật chất. Mà con người vật chất lại là một con người tạm bợ, vôthường, sáng còn tối mất.

Khoa học có thể cốnghiến cho nhân loại những thành tựu mới lạ tinh vi nhằm thỏa mãn cuộc sống tiệnnghi cho họ, nhưng không thể ngăn chặn được lòng tham lam, sân hận, si mê nơicon người. Mà hễ còn tham lam, sân hận, si mê là còn khổ đau. Bởi vì với mộtcon người đầy dẫy tham sân si, thì càng phát minh chỉ càng đưa đến tranh đấu,giành giựt và cuối cùng đi đến đánh nhau rồi chết chóc, thù hận mà thôi.

Thí dụ chỉ cần mộttrái bom nguyên tử trong bàn tay của kẻ hiếu chiến thì không quá một phút, cócả hàng vạn người tan nát ra tro, chưa kể đến những tổn thất vật chất khác nữa,thật là tội lỗi! Như vậy khoa học chỉ càng gieo rắc khổ đau thêm cho nhân loại,chớ không thể đem đến an vui hạnh phúc được. Nói như vậy không có nghĩa chúngtôi phủ nhận những thành tựu lớn lao của khoa học. Nhưng nếu được vừa tìm lạimình, vừa biết hết bên ngoài thì hay biết mấy! Ðức Phật dạy chúng ta xoay lạichính mình trước, đoạn tận mọi thứ phiền não si mê rồi thì tự nhiên sẽ chinhphục được vũ trụ bên ngoài sau, là vì vậy.

Chúng ta dù biết hếtcả vũ trụ ở ngoài mà không biết mình thì đã thực tế đâu? Phát minh được nhữngviệc bên ngoài, giúp đỡ cho cái thân tạm bợ mà cho là quan trọng, trong khiphát minh cái chân thật bất sanh bất diệt của mình để nhận và sống được với nóthì chúng ta lại xem thường, lại lơ là! Tại sao các nhà bác học giam mình trongphòng kín nghiền ngẫm về một vấn đề nào đó thì cho là tích cực; trong khi ngồilại, thiền định yên lặng để tìm ra con người chân thật nơi mình thì lại xem làtiêu cực? Như vậy cái nhìn của chúng ta có đúng không?

Ðạo Phật là đạo củatrí tuệ và từ bi, đạo của giác ngộ giải thoát. Tất cả pháp môn của Phật dạy đềuphải trở về chỗ chân thật của mình bằng chính định lực và trí tuệ của mình. Trởvề được chỗ chân thật là an vui hạnh phúc, chấm dứt mầm mống của mọi sự khổđau. Lúc đó, chúng ta mới có thể thông cảm, tha thứ, thương yêu và giúp đỡ đồngloại như chính bản thân mình. Cho nên chúng ta cứ cầu giải thoát, mà không biếtgiải thoát ra sao, muốn được hạnh phúc mà không biết thế nào là hạnh phúc? Thậtra hạnh phúc chân thật trong đạo Phật chính là giác ngộ giải thoát. Mà giảithoát là biết cái hư giả của thân và tâm này, nên không còn lệ thuộc vào nó,không chạy theo nó, không còn tạo nghiệp nữa. Không còn tạo nghiệp tức là khôngcòn khổ đau. Không còn khổ đau tức là hạnh phúc.

Với người biết tu thìcuộc sống vật chất của thân tứ đại này không có gì quan trọng cả. Phải làm chủđược mình, giúp mọi người cùng vượt lên trên những thứ phiền não trói buộc,sống an vui giữa những thay đổi của cuộc đời, chết thảnh thơi nhẹ nhàng nhưthay một chiếc áo mới, là mục đích chính của người tu Phật. Chúng ta nhìn lạixem những vị tu hành thâm nhập đạo lý sâu, sống được với đạo, không bao giờ lắcđầu chặc lưỡi thở dài, mà thường cười hoài. Bao nhiêu đó cũng đủ cho thấy đạoPhật đến với cuộc đời như thế nào rồi. Ðặc biệt là đạo Phật ở nước ta.

Trong thời Lý-Trần,đạo Phật được xem như Quốc giáo. Với một nền giáo lý nhập thế cơ bản, Phật giáoViệt Nam luôn có mặt, luôn gắn bó với vận mệnh của đất nước. Lúc thăng lúctrầm, khi ẩn khi hiện, nhưng chưa bao giờ vắng thiếu trên đất nước ta. Ðó chínhlà chân tinh thần đạo pháp không lìa thế gian, không lìa cuộc đời mà có vậy.Nếu không thế thì đạo Phật không thể tồn tại trong lòng dân tộc, trong lòngnhân loại được.

Cho nên khoa học càngtiến thì nền tảng đạo đức của con người lẽ ra phải càng cao, giá trị tâm linhphải càng sáng mới có thể dừng bớt những nguy cơ cho nhân loại. Nếu chúng tachưa thấy rõ tầm quan trọng đó thì nền khoa học hiện đại bước vào thế kỷ mới sẽkhông thể cứu vãn nhân loại thoát khỏi mọi thứ hiểm họa được. Thiên tai, bệnhtật, chiến tranh, nghiện ngập v.v.... đều xuất phát từ một nền tảng đạo đức suyđồi, từ lòng tham lam và si mê vô bờ của con người.

Chúng tôi thiết nghĩ,không thể có được nguồn an vui hạnh phúc chân thật khi con người chưa nhận ravà diệt trừ được nguồn gốc của khổ đau. Không thể có được một nền văn minh sángrực khi giá trị tâm linh của con người đã bị lu mờ. Muốn thế, nhân loại phảibiết trở lại với cái chân thật luôn hằng hữu bên mình. Bởi vì phát minh và làmchủ được chính mình cũng có nghĩa là phát minh và làm chủ được toàn thể vũ trụnày.

Muốn thế, chúng ta hãythử một lần đến và chiêm nghiệm giáo lý của đức Phật bằng chính sự thực hànhcủa mình xem sao!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2019(Xem: 14954)
“Một nữ cư sĩ đến gặp vị thầy trụ trì và nói: "Bạch Thầy, Con không đi chùa nữa!" Vị Thầy hỏi: – Vậy à, Đạo hữu có thể cho thầy biết lý do không?
14/01/2019(Xem: 7780)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 6791)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6208)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 6644)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5524)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
09/01/2019(Xem: 5498)
Thơ Báo Ơn Khóa Tu Báo Ơn năm nay Chúng con tu tập những ngày mùa đông Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
09/01/2019(Xem: 10247)
Ngày 26/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã rời Làng Mai Thái Lan về Đà Nẵng. Hai ngày sau, chiều 28/10, Thầy đã về chùa tổ Từ Hiếu trong sự chào đón của các học trò cũng như tăng ni, Phật tử ở Huế. Chuyện này thì ai cũng biết và các báo đài đã đưa tin rất nhiều.
08/01/2019(Xem: 8081)
Trong thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã bàn tán xôn xao đến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư (CC4) và đưa ra nhiều ý kiến là Việt Nam cần phải hành động để đón đầu cuộc CC41. Trước những thách thức mới ấy, trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần có những kiến thức và kỹ năng gì để có thể đáp ứng nhu cầu lao động trong thời kỳ CC4?
08/01/2019(Xem: 7818)
TRÁI TIM RỘNG MỞ THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Thông dịch: Thupten Jinpa Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tác giả, dịch giả và người hiệu đính.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]