Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Nhập dòng giải thoát

07/02/201109:32(Xem: 10521)
08. Nhập dòng giải thoát

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549
-08-

Nhậpdòng giải thoát

Trongkinh điển thường đề cập đến bốn quả vị mà ngườicon Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đếnNiết Bàn. Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc- hoặc các chặng đường - trên hành trình thanh lọc tâm ý,tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, thường đượcgọi là mười kiết sử hay thằng thúc (samyojana), tróibuộc chúng sinh vào vòng luân hồi.

Bốnquả vị đó là:

-Dự lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn),
-Nhất lai (Sakadāgāmi, Tư-đà-hàm),
-Bất lai (Anāgāmi, A-na-hàm),
-A-la-hán (Arahat, Ứng cúng).
Mườikiết sử là:
-thân kiến (sakkāya-ditthi),
-hoài nghi (vicikicchā),
-giới cấm thủ (silabata-parāmāsa)
-tham đắm vào cõi dục (kāma-rāga)
-sân hận (vyāpāda),
-tham đắm vào cõi sắc (rūpa-rāga),
-tham đắm vào cõi vô sắc (arūpa-rāga),
-mạn (māna),
-trạo cử vi tế (uddhacca),
-si vi tế (avijjā).
Trongnhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quảthánh đó như sau:

"...Có những Tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đãđoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữukiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánhtrí.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ nămhạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở đấy được nhậpNiết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiếtsử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sanh vào đờinày một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiếtsử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giácngộ". - (Trung bộ, 118)

*

Ngườiđạt quả Dự lưulà người đã đoạn trừ ba kiếtsử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Ngườinầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giảithoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làmngười hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp, vìvậy có sách gọi là quả Thất lai. Người nầy còn đượcgọi là đã mở "Pháp nhãn", vì người ấy đã bắt đầucó thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng ChánhPháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như làmột bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắcvà tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nàovề sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoàinghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghivề con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giácngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đãđi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoáttối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng NiếtBàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thứclễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.

Thânkiến, kiết sử đầu tiên, là sự hiểu sai lạc về cái gọilà Tự ngã, hay cái Tôi, đồng hóa nó với một trong năm uẩn(sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong bài kinh số 44, thuộcTrung Bộ, Ni sư Dhammadina giảng rằng một người đã đoạntrừ thân kiến là một người "không xem sắc là tự ngã,không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã,không xem tự ngã là trong sắc", tương tự như thế đốivới bốn uẩn còn lại.

Cóngười thường hiểu lầm về chữ "hoài nghi" dùng ở đây.Tiếng Pāli là "vicikicchā", thường dùng để chỉ tháiđộ nghi ngờ về Phật Pháp Tăng và về lý Duyên sinh. NgàiPhật Âm (Buddhaghosa), trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo,nói rằng vicikicchācòn là một thái độ do dự, khôngnhất quyết, không sẵn sàng tra vấn, học hỏi. Do đó cầnphải đoạn trừ kiết sử nầy. Ðức Phật khuyến khích chúngta phải biết nỗ lực suy tư, luận giải và chứng nghiệmngay trong đời sống hằng ngày, vì Pháp là "mời mọi ngườiđến xem xét" (ehipassika). Ðể rồi chúng ta thấy, biếtrõ ràng sự ích lợi của Phật Pháp cho con đường hành trìcủa ta, và từ đó, có một niềm tin vững chắc vào Tam Bảo,không còn thắc mắc, phân vân, hay do dự gì nữa.

Chữ"giới cấm thủ" cũng thường bị hiểu lầm. Ở đây đểchỉ thái độ mê tín mù quáng, bám thủ vào các hình thứclễ nghi, tin rằng làm như thế là đủ để thanh lọc tâm.Đoạn trừ giới cấm thủ không có nghĩa là một thái độbuông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh.Trái lại, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giớiluật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyệntâm, nhưng lại không mù quáng, không quá lệ thuộc vào cáchình thức giáo điều. Một người không còn giới cấm thủlà một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, nhưngsống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn xemđó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình.

Đểtrừ khử các kiết sử trên, Đức Phật khuyên chúng ta phảinỗ lực thực hành bốn điều: (1) thân cận bậc chân nhân,(2) lắng nghe diệu pháp, (3) như lý tác ý, và (4) thực hànhpháp và tùy pháp, như đã ghi trong Tương Ưng 55.11:

"Thâncận bậc Chân nhân là Dự lưu phần.
Nghediệu pháp là Dự lưu phần.

Nhưlý tác ý là Dự lưu phần.

Thựchành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần".
RồiNgài giảng về sự liên quan của bốn pháp trên:

-"Này các Tỳ-khưu, giao thiệp với bậc Chân nhân được viênmãn thời làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp đượcviên mãn thời làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn,thời làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viênmãn, thời làm viên mãn chánh niệm tỉnh giác; chánh niệmtỉnh giác được viên mãn, thời làm viên mãn các căn đượcchế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn, thờilàm viên mãn Ba thiện hành; Ba thiện hành được viên mãn,thời làm viên mãn Bốn niệm xứ; Bốn niệm xứ được viênmãn, thời làm viên mãn Bảy giác chi; Bảy giác chi đượcviên mãn, thời làm viên mãn Minh giải thoát" (Tăng Chi 10.61).

Vềthân cận bậc chân nhân, Ngài giảng:

-"Thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, thiện nam tử sốngtại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay conngười gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức,hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức,đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí,đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận.Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập vớiđầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức,vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những ngườiđầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí.Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập vớiđầy đủ trí tuệ. Đây gọi là làm bạn với thiện" (TăngChi 8.54).

RồiNgài khuyên:

Nếuthấy bậc hiền trí,
Chỉlỗi và khiển trách,

Nhưchỉ chỗ chôn vàng,

Hãythân cận người trí!

Thâncận người như vậy,

Chỉtốt hơn, không xấu. (Pháp Cú, 76)

Chớthân với bạn ác,
Chớthân kẻ tiểu nhân.

Hãythân người bạn lành,

Hãythân bậc thượng nhân. (Pháp Cú, 78)

ĐứcPhật đề cập đến 5 lợi ích của việc biết nghe diệupháp: (1) được nghe điều chưa nghe, (2) làm cho trong sạchđiều được nghe, (3) đoạn trừ nghi, (4) làm cho tri kiếnchánh trực, và (5) làm cho tâm tịnh tín (Tăng Chi, 5.202).

Trongkinh "Tất cả các lậu hoặc" (Trung Bộ 2), Đức Phật dạyvề pháp như lý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩcủa mình sao cho có lợi lạc trên đường tu tập, như sau:

-"Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý vàvị ấy tác ý? Này các Tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấytác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậuđã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanhkhởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậuchưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừdiệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tácý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tácý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưasanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừdiệt.

Vịấy như lý tác ý: Ðây là khổ; như lý tác ý: Ðây là khổtập; như lý tác ý: Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðâylà con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý nhưvậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giớicấm thủ. Này các Tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là phápdùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc".

KhiTỳ-khưu Kotthika hỏi ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất cần phảinhư lý tác ý thế nào để được giải thoát, ngài đáp:

-"Này Hiền giả Kotthika, Tỳ-khưu giữ giới cần phải nhưlý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ungnhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại,rỗng không, vô ngã.

Nămthủ uẩn đó là gì? Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn,tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiềngiả Kotthika, vị Tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tácý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt,mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗngkhông, vô ngã" (Tương Ưng 22.122).

Vềthực hành pháp và tùy pháp, ở đây được giảng rộng ra,bao gồm chánh niệm tỉnh giác, phòng hộ các căn, huân tậpba thiện hành (thân, khẩu, ý), thực hành bốn niệm xứ (thân,thọ, tâm pháp), và phát triển bảy giác chi (niệm, trạchpháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả).

Trongnhiều bài kinh (Tương Ưng Bộ, Phẩm Dự Lưu), Đức Phậtthường đề cập đến bốn đặc tính của một vị thánhDự lưu là: niềm tín thành bất động nơi Đức Phật, nơiGiáo Pháp của Ngài, nơi đoàn thể các vị Thánh Tăng và cógiới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chânnhân khen ngợi. Trong Tăng Chi 10.92, Ngài giảng:

-"Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? Ở đây, này Giachủ, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đốivới Đức Phật: Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh ÐẳngGiác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô ThượngSĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp: Phápđược Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, khôngcó thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,được người trí tự mình giác hiểu. Vị ấy thành tựutịnh tín bất động đối với chúng Tăng: Diệu hạnh làchúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử ThếTôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnhlà chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúngđệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôntrọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, làphước điền vô thượng ở đời. Vị ấy thành tựu vớinhững giới đức được các bậc Thánh ái kính, không bịphá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, khôngbị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tánthán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định."

Mặcdù đoạn kinh trên thường được xem là các tiêu chuẩn cănbản của quả Dự lưu, trong kinh điển còn có ghi các danhsách khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới hạnh được thaythế bằng tiêu chuẩn bố thí và trí tuệ:

- TươngƯng 55.32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vịThánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uếcủa xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thútừ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vậtbố thí."

- TươngƯng 55.33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vịThánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệtcác pháp, trí tuệ các bậc Thánh thể nhập các pháp, đưađến chơn chánh đoạn tận khổ đau."

Khicác danh sách liệt kê này được kết hợp lại, chúng ta cóđược bốn đức tính của vị Thánh Dự Lưu: (1) đầy đủlòng tin, (2) đầy đủ giới đức, (3) đầy đủ bố thí,và (4) đầy đủ trí tuệ.

Đócũng là bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tươnglai cho một cư sĩ Phật tử:

-"Có bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tươnglai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòngtin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trítuệ" (Tăng Chi 8.54).

Ởđây, lòng tin nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) không phải chỉđơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín mù quáng. Vị Dự Lưuthật sự tín nhiệm, tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả- nguyên lý của hành động và hậu quả - vì vị ấy đãchứng nghiệm rõ ràng khi bắt đầu nhập dòng Thánh.

*

Tronggiai đoạn tu tập kế tiếp, khi tham dục (tham đắm vào dụcgiới) và sân hận được trừ khử một cách đáng kể thìngười đó đắc quả Nhất lai, nghĩa là có thể còntái sinh làm người hoặc trong cõi trời dục giới một lầnnữa. Khi hai kiết sử tham dục và sân hận được loại bỏhoàn toàn, thì người ấy đắc quả Bất lai, nghĩa làkhông còn tái sinh vào cõi dục giới nầy nữa. Năm kiết sửđầu tiên nầy gọi là hạ phần kiết sử (orambhāgiya-samyojana),cột trói chúng sinh trong cõi dục. Tùy theo trình độ chứngđạt, bậc thánh Bất lai sẽ thác sinh về Tịnh cư thiên thuộccõi trời sắc giới (rūpa-loka), trước khi nhập Niết-bàntối hậu. Ba quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai cũng thườngđược gọi chung là quả vị của bậc thánh Hữu học.

Ngườiấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý, và tinh tấn trừkhử năm kiết sử còn lại: tham đắm vào cõi sắc, tham đắmvào cõi vô sắc, trạo cử vi tế, mạn, và si vi tế. Năm kiếtsử nầy gọi là thượng phần kiết sử (uddhambhāgiya-samyojana),cột trói chúng sinh trong cõi sắc và vô sắc. Ở đây, thamđắm vào cõi sắc và cõi vô sắc là sự tham đắm vào bốntầng thiền-na hữu sắc (rūpa-jhāna)và bốn tầng thiền-navô sắc (arūpa-jhāna). Trạo cử vi tế là trạng tháivẫn còn một vài giao động nhỏ trước trần cảnh, mạn(māna)là các ý tưởng so sánh, và si vi tế là mộtvài dấu vết vô minh ngăn che còn sót lại.

*

Ðếnlúc đó, người ấy đã phá tung tất cả mười sợi dây tróibuộc, trừ khử mười loại kiết sử ô nhiễm, lậu hoặcđã đoạn tận, tuệ giác khai mở, không còn tạo nghiệp,không còn phải tái sinh, luân hồi nữa. Nói một cách khác,như đã mô tả trong Trung Bộ Kinh, bài kinh số 1 (Kinh PhápMôn Căn Bản), đối với người ấy: "các lậu hoặc đãtận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặtgánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừhữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát". Người ấytrở thành bậc A-la-hán, bậc thánh Vô học, đắc đạoquả Niết Bàn, giải thoát rốt ráo tối hậu.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2016(Xem: 7820)
Doanh Nhân Phật tử Vũ Chầm, người cư sĩ uyên thâm, giản dị và đôn hậu. Sáng nay, cũng như thường lệ, trước giờ làm việc, chúng tôi dành 15 phút cùng nhau tọa thiền dưới sự dẫn dắt của TS Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Thái Hà Books. Vì là ngày cuối tuần nên hôm nay, sau thời tọa thiền, chúng tôi cùng ngồi bên nhau hàn huyên và nghe thầy Hùng chia sẻ về những tấm gương doanh nhân Phật tử. Sáng nay thầy Hùng kể về bác Vũ Chầm, chủ tịch HĐQT tập đoàn Vina Giầy và được xem là tấm gương lớn vượt khó, vượt nghèo, một tấm gương lớn của phụng sự Đạo Phật.
20/01/2016(Xem: 6397)
Ông giám đốc Aoyagi Yosuke người Nhật rất tin Đạo Phật Tôi viết bài này sau khi mới đến tụng kinh tại Bệnh viện mắt quốc tế Nhật Bản trên đường Phó Đức Chính, quận Tây Hồ TP Hà Nội (rất tiếc rằng tôi không nhớ số nhà là số nào). Tôi viết bởi thấy vừa ngạc nhiên, vừa kính trọng vị giám đốc người Nhật đang điều hành bệnh viện này. Ông tên là Aoyagi Yosuke.
20/01/2016(Xem: 8196)
Nhà Giàu là người sở hữu nhiều cơ sở vật chất và nhiều tài sản có giá trị. Bồ Tát là người có tâm tỉnh giác, có tâm nguyện rộng lớn, luôn hành trì để giải thoát cho mình không còn tham, sân, si, biếng nhác, kiêu mạn; luôn hành đạo để giúp người thoát khỏi vô minh, phiền não, đói rách, bệnh tật. Con đường từ Nhà Giàu đến Bồ Tát được đo bằng sáu phẩm hạnh: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tại sao? Là vì, bố thí là diệt trừ lòng tham, trì giới là diệt trừ thân ô nhiễm, nhẫn nhục là diệt trừ tánh kiêu mạn, tinh tấn là diệt trừ sự biếng lười, thiền định là diệt trừ tâm loạn động.
15/01/2016(Xem: 9699)
Dưới đây là phần chuyển ngữ của một bài viết trong quyển "Người phụ nữ" ("Les Femmes", nhiều tác giả, nhà xuất bản de l'Atelier, 2002), thuộc một bộ sách với chuyên đề "Các tôn giáo nghĩ gì?" (Ce qu'en pensent les religions). Tác giả bài viết này là Dominique Trotignon, nguyên tổng giám đốc Viện Nghiên Cứu Phật Học (IEB/Institut d' Etude Bouddhique) của Pháp, tu tập theo Phật giáo Theravada.
10/01/2016(Xem: 7319)
Cuốn hộ chiếu của một kỹ sư người Nhật tên là Ryoichi Kishi được tìm thấy sau khi có người phát hiện thi thể của ông tại nghĩa trang quận Altinova của Yalova, Thổ Nhĩ Kỳ. Chuyện rằng một kỹ sư người Nhật đang làm việc cho một công trình xây dựng cầu treo tại Thổ Nhĩ Kỳ đã tự tử vào đúng hôm chủ nhật sau khi một sợi dây cáp bị đứt. Mặc dù cầu không bị gẫy và không có người thiệt mạng, người kỹ sư 51 tuổi Kishi Ryoichi đã tự nhận trách nhiệm cho sự cố này trong bức thư mà ông để lại. Tin tức nhanh chóng lan truyền trên mạng xã hội Thổ Nhĩ Kỳ và rất nhiều người ca ngợi lòng tự trọng của người kỹ sư, thậm chí một số người còn đề nghị đặt tên cây cầu mang tên ông.
07/01/2016(Xem: 11342)
Nếu người nào cho con trai, con gái, đứa ở trai, đứa ở gái hoặc người dân hay chính mình đi xuất gia, công đức ấy thật vô biên. Nếu đem so với phước báu của bố thí, dầu có được hưởng phước đến 10 đời trên cõi nhân, thiên cũng không bằng công đức cho một người đi xuất gia hay tự mình đi xuất gia. Tại sao thế? Vì phước báo bố thí chỉ có hạn định, còn phước báo xuất gia không có hạn định, nên không thể bì kịp, hoặc phước báu trì giới, hoặc phước của các vị thần tiên có đủ năm phép thần thông, cho đến phước báu cùng tột của cõi trời Phạm thiên, đem ví với phước báu của xuất gia trong Phật-Pháp cũng không sánh nổi.
07/01/2016(Xem: 8315)
THUẬT NGỮ "ĐẠT LAI LẠT MA" có những ý nghĩa khác nhau tùy theo những con người khác nhau. Đối với một số người, thuật ngữ này tuyên bố rằng tôi là một vị Phật Sống, hóa thân trên trái đất của Quán Thế Âm, một vị Bồ tát của Từ Bi. Đối với một số người khác, nó có nghĩa rằng tôi là một vị "Thánh Vương."
07/01/2016(Xem: 10233)
Chí nguyện thứ nhất của tôi trong đời sống, như một con người, là thúc đẩy những giá trị nhân bản và những phẩm chất đó của tâm linh là những nhân tố then chốt trong một cuộc sống hạnh phúc, cho dù là một cá nhân, một gia đình, hay một cộng đồng. Ngày nay, dường như đối với tôi thì chúng ta không trau dồi những phẩm chất nội tại này đầy đủ; đó là tại sao ưu tiên của tôi là phát triển chúng.
07/01/2016(Xem: 7686)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị tái sanh lần thứ mười bốn thuộc dòng truyền thừa hình thành với sự hóa thân Giác Ngộ từ bi lần thứ nhất của Gendun Drup vào năm 1391. Đức Đạt Lai Lạt Ma đàm luận về những giai thoại và những thành tựu của các kiếp sống trước của ngài một cách tự nhiên cũng như ngài liên hệ đến những ký ức thời thơ ấu của ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]