Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Năm chướng ngại

07/02/201109:32(Xem: 10189)
06. Năm chướng ngại

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-06-

Nămchướng ngại

Chướngngại chính cản trở sự thành công trong hành thiền và pháttuệ giải thoát thường có dạng của một trong năm loạitriền cái (ngũ cái). Triền cái là sự ngăn che, làm cho vướngmắc trong vòng luân hồi sinh tử. Tiếng Phạn là "Nīvarana",và tiếng Anh dịch là "Hindrances". Toàn thể pháp hànhđưa đến Giác ngộ có thể được diễn tả như một nỗlực để vượt qua năm chướng ngại nầy, đầu tiên là tạmthời đè nén chúng để đắc Thiền-na (Jhāna)và pháttuệ minh sát, rồi dần dần chế ngự và trừ diệt chúngmột cách vĩnh viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Ðạo.Năm chướng ngại đó là:

-Tham dục (Kāmacchanda, Sense desire)
-Sân hận (Vyāpāda, Ill will)
-Hôn trầm (Thīna-middha, Sloth and Torpor)
-Trạo cử (Uddhacca-kukkucca, Restlessness)
-Hoài nghi (Vicikicchā, Doubt)
Trongnhiều bài kinh, Đức Phật giảng dạy tóm tắt việc chếngự năm triền cái ấy như sau:

"...Vị Tỳ-khưu lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như khurừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoàitrời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vịấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trúchánh niệm trước mặt. Vị ấytừ bỏ tham dục ở đời,sống với tâm thoát ly tham dục, gột rửa tâm hết tham dục.Từbỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòngtừ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâmhết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấysống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướngvề ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôntrầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấysống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hếttrạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sốngthoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửatâm hết nghi ngờ đối với các thiện pháp..."

Ởđây, trong bài nầy, chúng tôi xin giải thích thêm về nămchướng ngại ấy trong tiến trình tu tập hành thiền củangười con Phật.

*

1.THAM DỤClà để chỉ trạng thái mong cầu dục lạc quanăm giác quan của hình dáng, âm thanh, mùi hương, vị nếm,và cảm xúc. Tham dục đặc biệt không bao gồm các ước nguyệnđược hạnh phúc qua căn thức thứ sáu là tâm ý.

Trongmột dạng cực đoan, tham dục là lòng mong ước mãnh liệtđể tìm khoái lạc trong những hoạt động tình dục, thứcăn ngon, hương thơm, cảnh sắc đẹp đẽ hoặc âm nhạc dudương. Nó cũng bao gồm lòng ham muốn thay thế các cảm giáckhó chịu hay đau đớn bằng các cảm giác dễ chịu, có nghĩalà lòng ham muốn được có cảm giác thoải mái.

ÐứcPhật ví sự tham dục như thể đi vay nợ. Các sự khoái lạcta có qua năm căn đều phải trả lại qua các đau khổ vềbiệt ly, mất mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽtheo đuổi mãnh liệt sau khi các khoái lạc đã bị tiêu dùng.Cũng như bất cứ món nợ nào cũng phải trả thêm lời, vànhư thế Ðức Phật dạy rằng sự khoái lạc đó thật ralà nhỏ bé so với các đau khổ phải hoàn trả.

Trongkhi hành thiền, thiền sinh vượt qua lòng tham dục bằng cáchbuông xả mọi quan tâm về thân thể và hoạt động của nămgiác quan. Nhiều người cho rằng năm giác quan đó hiện diệnđể phục vụ và bảo vệ tấm thân, nhưng thật ra, tấm thânnầy hiện hữu để phục vụ cho năm giác quan, vì chúng dàndựng thế giới để tìm cầu khoái lạc. Thật thế, ÐứcPhật đã từng bảo rằng: "Năm giác quan chính là thế giới",và để thoát ra thế giới, để vui hưởng hạnh phúc siêuthế của thiền-na, chúng ta phải biết xả ly các quan tâmvề thân và năm giác quan của nó.

Khivượt qua được tham dục, tâm của thiền sinh sẽ không cònđể ý đến các hứa hẹn của khoái lạc và cũng không cònđể ý đến sự khoan khoái của cơ thể. Thân thể dườngnhư tan biến và năm giác quan dường như đóng lại. Sự khácbiệt giữa khi còn tùy thuộc hoạt động của năm giác quanvà khi vượt qua chúng cũng như thể sự khác biệt khi ta nhìnra bên ngoài qua khung cửa sổ và khi ta nhìn vào gương soi.Tâm ta khi được giải thoát khỏi hoạt động của năm giácquan sẽ có thể thật sự quay nhìn vào bên trong và thấy rõbản chất thật sự của nó. Từ đó, trí tuệ nảy sinh đểcho ta biết được ta là ai, từ đâu và tại sao.

*

2.SÂN HẬNlà để chỉ trạng thái mong muốn trừng phạt,gây khổ hoặc tàn phá. Nó bao gồm lòng thù ghét một ngườihoặc một hoàn cảnh nào đó, và vì nó tạo ra một năng lựcmãnh liệt, nó rất hấp dẫn và tạo lôi cuốn. Có lúc nócó vẻ như được biện minh vì nó có một sức mạnh làmbăng hoại khả năng phán xét vô tư của ta. Nó cũng bao gồmlòng thù hận tự thân, thường được xem như một mặc cảmtội lỗi, để tước đoạt mọi khả năng tạo hạnh phúc.Trong khi hành thiền, lòng sân hận thường hiện ra như sựchán ghét vào chính đối tượng thiền quán, bỏ rơi nó đểhướng sự chú tâm của ta lang thang qua các nơi khác.

ÐứcPhật ví lòng sân hận như thể người bị bệnh. Bệnh tậtcản trở sự tự do và hạnh phúc của sức khỏe. Cũng nhưthế, lòng sân hận cản trở sự tự do và hạnh phúc củaan bình.

Sânhận được vượt qua bằng cách áp dụng lòng Từ mẫn. Khicó sự sân hận đối với người nào, lòng Từ mẫn dạycho ta thấy được các sự kiện khác về người ấy ngoàisự kiện đang làm ta đau khổ, để thấy rằng tại sao ngườiấy làm khổ ta - thông thường giúp ta thấy được ngay chínhngười ấy cũng đang bị đau khổ - và khuyến khích ta bỏqua các đau khổ của chính mình và nhìn người khác với lòngtừ bi.

Tuynhiên, nếu ta chưa làm được như thế, lòng Từ mẫn cho chínhbản thân cũng sẽ giúp cho ta không còn sân hận vào tự thân,chấm dứt tự làm khổ mình bằng các ký ức về những hànhđộng đau khổ. Như thế, khi có sân hận vào ngay chính mình,Từ mẫn sẽ giúp ta thấy được lỗi lầm của chính mình,khuyến khích ta tự tha thứ cho chính mình, giúp ta học đượcqua các bài học đó rồi buông xả chúng. Kế đến, nếu tacó lòng sân hận về đối tượng tham thiền - thường làlý do khiến thiền sinh không được an bình - lòng từ mẫnsẽ giúp ta bám sát và nâng niu đối tượng đó một cáchtrìu mến và vui thích.

Cũngnhư bà mẹ thường có bản tính tự nhiên thương yêu đứacon, thiền sinh có thể đối xử với hơi thở của mình vớicác cảm giác tương tự. Như thế, thiền sinh không thể nàoquên lãng hơi thở của mình - một đối tượng tham thiền- cũng như thể bà mẹ không thể nào bỏ quên đứa con trongkhi vào chợ. Từ đó, thiền sinh không thể nào xao lãng hơithở vì một ý nghĩ nào đó, cũng như bà mẹ không thể nàobuông bỏ đứa con mà bà đang bồng bế trong tay. Khi lòng sânhận được vượt qua, ta sẽ tạo được một liên hệ lâubền với mọi người, an vui với đối tượng tham thiền,và từ đó ta sẽ hoàn toàn thấm nhập vào thiền-na.

*

3.HÔN TRẦMlà để chỉ trạng thái nặng nề của cơ thểvà mờ tối của tâm thức, kéo ta vào một sự lừ đừ vàchán nản. Ðức Phật ví nó như thể bị giam vào một phòngtối, chật chội, không thể di chuyển tự do, trong khi bênngoài là trời nắng sáng. Trong khi hành thiền, nó làm cho tachỉ có những giác niệm rời rạc, yếu ớt và từ đó đưađến sự ngủ gục trong lúc thiền mà ta lại không biết.

Hôntrầm được vượt qua bằng cách làm khơi dậy năng lực tinhtấn. Nguồn năng lực lúc nào cũng có sẵn nhưng ít ngườibiết cách khai thác nó. Ðặt một mục đích, một mục đíchvừa phải, là một cách khôn ngoan và hữu hiệu để phátsinh năng lực, để tạo nhiều hứng khởi vào công việc trongtay. Một đứa bé con thường có một sự thích thú tự nhiên,và tiếp theo là năng lực, bởi vì thế giới bên ngoài rấtmới lạ đối với em. Như thế, nếu chúng ta học cách nhìnvào đời sống của chính ta, hoặc pháp thiền của ta, bằngtâm trí của một người mới bắt đầu (sơ tâm), ta sẽ luônluôn nhìn nó qua những góc nhìn mới lạ và những điều khảthi tươi tắn, với nhiều nghị lực và tinh tấn, xa rời trạngthái buồn chán.

Tươngtự, ta có thể tạo hứng khởi vào điều đang làm bằng cáchhuấn luyện tư tưởng để nhìn được cái đẹp trong chuyệnthông thường. Từ đó, phát sinh sự thích thú, tránh khỏitrạng thái nửa sống nửa chết của hôn trầm.

Tâmthức có hai nhiệm vụ chính: cái làm(tác nhân - thedoer)cái biết (tri nhân - the knower). Hànhthiền là để làm an dịu "cái làm" để đạt đến an địnhtuyệt đối trong khi vẫn duy trì "cái biết". Hôn trầm sẽxảy ra khi thiền sinh bất cẩn, làm an dịu "cái làm" lẫn"cái biết", không có khả năng để phân biệt chúng.

Hôntrầm là một vấn đề rất thông thường, từ từ lan rộngra rồi bao trùm tâm thiền sinh. Một thiền sinh thiện xảophải biết canh chừng, phát hiện ngay những dấu hiệu đầutiên của hôn trầm, nhận định chúng và phải có phản ứngđối phó kịp thời. Cũng như khi ta đến ngã ba đường, tacó thể chọn một đường cho tâm thức xa rời sự hôn trầm.Hôn trầm là một trạng thái khó chịu của thân và tâm, quácứng đọng không thể đi vào sự an lạc của Thiền-na, vàquá mù quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm lại,đây hoàn toàn là một sự phí phạm thì giờ.

*

4.TRẠO CỬlà để chỉ trạng thái tâm như khỉ vượn chuyềncành, không bao giờ chịu ở yên tại bất cứ chỗ nào. Nóđược tạo ra từ trạng thái tìm lỗi trong tâm, không baogiờ chịu thỏa mãn với sự việc như thật, và như thếphải phóng ra ngoài tìm những hứa hẹn tốt hơn, lúc nàocũng nhìn sang nơi khác.

ÐứcPhật ví trạo cử như một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảytheo lệnh của ông chủ khắc nghiệt luôn luôn đòi hỏi sựtoàn hảo, và như thế không bao giờ cho phép nó được dừngnghỉ.

Trạocử được vượt qua bằng cách phát triển sự biết đủ(tri túc), là đối nghịch với sự tìm lỗi. Ta học cách anvui đơn giản qua sự hài lòng với chút ít, chứ không phảilúc nào cũng đòi hỏi cho nhiều. Ta cảm thấy biết ơn tronggiây phút hiện tại, chứ không phải moi tìm các khiếm khuyếtcủa nó. Như một thí dụ, trạo cử khi hành thiền thườnglà sự nóng nảy mong sao để tiến nhanh vào giai đoạn kếtiếp. Thế nhưng, cấp độ tiến triển nhanh nhất thườngxảy ra cho những thiền sinh nào chỉ biết bằng lòng vớinhững gì họ đạt được ngay trong hiện tại. Vì có sựtri túc, hài lòng đó đã làm chín muồi để đi vào giai đoạnkế tiếp.

Chonên, ta phải cẩn thận về thái độ làm nhanh cho xong, vàthay vào đó, cần phải học cách an nghỉ trong trạng tháihài lòng và tri túc. Làm như thế, "cái làm" sẽ tan biến vàcông phu hành thiền sẽ nở hoa.

Hốihậnlà một trạng thái đặc biệt của trạo cử, lànghiệp quả của các hành động bất thiện. Cách duy nhấtđể vượt qua hối hận - sự trạo cử do lương tâm cắnrứt - là phải giữ gìn giới đức, tập sống tử tế, khônngoan và dịu dàng. Một người không có đạo đức hoặc sốngbuông lung thì không thể nào có được các kết quả sâu sắctrong khi hành thiền.

*

5.HOÀI NGHIlà để chỉ trạng thái nội tâm đặt nhiềucâu hỏi rối ren trong lúc thiền sinh cần yên lặng để tiếnsâu hơn vào tâm thức. Nghi ngờ tạo ra câu hỏi về chínhkhả năng của ta: "Không biết tôi có làm được việc nầykhông?", hoặc nghi vấn về pháp hành: "Không biết cáchnầy có đúng không?", hoặc ngay cả nghi vấn về ý nghĩa:"Cáigì đây?". Cần phải nhớ rằng các câu hỏi đó là chướngngại trong lúc hành thiền, bởi vì chúng đặt ra không đúngthời, và vì thế trở thành sự xâm chiếm, làm lu mờ trikiến thanh tịnh.

ÐứcPhật ví nghi ngờ như thể bị lạc trong sa mạc, không nhậnra được các mốc điểm. Sự nghi ngờ đó được vượt quabằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ ràng, có mộtbản đồ tốt, để giúp ta thấy được các mốc điểm vitế trong vùng đất không quen thuộc của tâm thiền sâu kín,và từ đó biết được con đường phải đi. Nghi ngờ vềkhả năng của chính mình có thể được vượt qua bằng cáchnuôi dưỡng lòng tự tin với một vị thiền sư tốt. Vịthiền sư có thể ví như một huấn luyện viên thể thao cókhả năng thuyết phục các vận động viên rằng họ có thểthành công.

ÐứcPhật dạy rằng mỗi người chúng ta có thể, và sẽ đắcThiền-na và Giác ngộ nếu ta thực hành theo các hướng dẫncủa Ngài một cách nghiêm túc và kiên nhẫn. Chỉ có điềulà ta không thể biết chắc chắn khi nào thì kết quả đósẽ xảy ra. Kinh nghiệm hành thiền giúp ta vượt qua các nghingờ về khả năng của ta và về con đường hành đạo. Khita tự thực chứng được các giai đoạn tốt đẹp của conđường, ta khám phá rằng thật ra ta có khả năng cao nhất,và đây đúng là con đường đưa ta đến mục đích đó.

Nghingờ - trong dạng kiểm tra thường xuyên: "Ðây có phảilà Thiền-na? Tôi được kết quả đến đâu?"- đượcvượt qua bằng cách nhận thức rằng các câu hỏi như thếnên hoãn lại cho đến lúc cuối, trong những phút cuối củabuổi thiền. Vị bồi thẩm tòa án chỉ có quyết định trongngày cuối phiên tòa, khi các tang chứng đã được trình bày.Cũng như thế, một thiền sinh thiện xảo chỉ biết yên lặngthu nhặt mọi bằng chứng, và chỉ xét duyệt trong những phútcuối để khám phá ý nghĩa của nó.

Tronghành thiền, nghi ngờ hoàn toàn tan biến khi tâm thức hoàntoàn tin tưởng vào sự vắng lặng, không còn gây rối loạnvới các đối thoại, các lời thì thầm bên trong. Cũng nhưthể ta có được một tài xế tài ba, ta hoàn toàn tin tưởngngười đó, và ta chỉ là một hành khách, ngồi yên lặngquán sát ghi nhận trong suốt cuộc hành trình.

*

Trongphẩm Năm Pháp, Tăng Chi Bộ, Đức Phật có nói về tầm quantrọng của việc đoạn tận năm triền cái như sau:

-"Vị Tỳ-khưu nào sau khi đoạn tận năm triền cái bao phủtâm, làm yếu ớt trí tuệ, thì vị ấy sẽ có sức mạnh,có trí tuệ, sẽ biết được lợi ích của mình, sẽ biếtđược lợi ích của người, sẽ biết được lợi ích củacả hai, sẽ chứng ngộ được pháp thượng nhân, tri kiếnthù thắng, xứng đáng là bậc Thánh".

Khihành thiền, nếu có vấn đề xảy ra thì đó là vì có sựhiện diện của một trong Năm Triền Cái nầy, hoặc là sựkết hợp của chúng. Như thế, khi thiền sinh gặp khó khăn,thiền sinh nên dùng các định nghĩa như trên của Năm TriềnCái như là bảng kiểm tra để xác định vấn đề. Từ đó,thiền sinh biết được cách hóa giải thích hợp, áp dụngcẩn thận, vượt qua trở ngại để tiến vào mức thiềncao sâu hơn.

Khihoàn toàn vượt qua được năm sự ngăn che đó, hàng rào giữathiền sinh và sự an lạc của thiền-na sẽ không còn hiệnhữu nữa. Do đó, sự kiểm chứng chắc chắn nhất để biếtNăm Triền Cái nầy đã thật sự được vượt qua là thiềnsinh phải nỗ lực phát triển được khả năng đem tâm anđịnh vào các tầng thiền-na.

(Dựatheo bài "The Five Hindrances",
Thiềnsư Ajahn Brahmavamso)





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2018(Xem: 8722)
Một vị cư sĩ hỏi vị Sư: - Bạch Thầy cho con hỏi vì sao có người tu thì an lạc, có người tu lại chẳng an lạc? Vị Sư không đáp mà thủng thẳng hỏi: Chẳng hay tâm của Đạo hữu đang an hay chẳng an? Cư sĩ: Bạch thầy tâm con vừa an, vừa bất an. Vị Sư: Cho tôi hỏi đôi điều, Đạo hữu nghĩ sao cứ thẳng thắn mà đáp. Khi nào Đạo hữu thấy an?
28/07/2018(Xem: 5658)
CHÙA NHỎ MIỀN QUÊ Tôi đứng lặng im trước bức thư pháp đề thơ lộng khung kính treo trên vách của ngôi điện im ắng. Thư pháp của chính Thầy trú trì. Thi phẩm bất hủ của Trương Kế, đã được truyền tụng nhiều đời, đưa tiếng chuông của một ngôi chùa ngân vọng giữa thinh không, rung động xuyên suốt cả không gian và thời gian, khiến cho nhân tâm đang lăng xăng phóng túng phải quay về với thinh thinh lắng đọng.
28/07/2018(Xem: 8802)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 6909)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10258)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7523)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8387)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 5900)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6563)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8858)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]