Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Trăng tròn tháng Giêng

07/02/201109:32(Xem: 9777)
02. Trăng tròn tháng Giêng

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-02-

Trăngtròn tháng Giêng

Cóba dịp lễ lớn trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy:MaghaPujalà ngày lễ Rằm tháng Giêng, kỷ niệm ngày Đức Phậtthuyết kệ Ovāda-pātimokkha(Giải thoát giáo), là cănbản cho các giới luật sau này; Vesakha Pujalà ngày lễRằm tháng Tư, tức là ngày lễ Tam Hợp Đản Sinh - Thành Đạo- Đại Niết Bàn; và Asalha Pujalà ngày lễ Rằm thángSáu, kỷ niệm ngày Đức Phật giảng kinh Chuyển Pháp Luân,và sau đó, chư Tăng Nam tông bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.

Rằmtháng Giêng còn gọi là ngày Phật Di Chúc, kỷ niệm ngày ĐứcPhật tuyên bố xác định nền tảng của giáo pháp và giớiluật đã thiết lập vững vàng, và Ngài sẽ nhập diệt (bátniết bàn) 3 tháng sau ngày đó.

*

1)Ovādapātimokkha

KhiĐức Phật ngụ tại khu vườn trúc (Trúc lâm) trong thành Vươngxá, có 1250 vị tỳ-khưu dù không hẹn trước đến lễ báiNgài vào ngày trăng tròn tháng Magha theo lịch Ấn Độ, tươngứng với tháng Giêng âm lịch. Các vị ấy là những đệtử đầu tiên đã xuất gia với Ngài và đều đắc quả A-la-hán.Có sách ghi rằng trong số đó, 1000 vị là thuộc nhóm Jatilatức nhóm đạo sĩ tóc bính đã xin xuất gia theo Đức Phậtsau khi được nghe Ngài giảng bài kinh Lửa Cháy (Tương Ưng35.28); và 250 vị kia là thuộc nhóm Aggasāvaka trước kia làđệ tử của ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.

Trongdịp nầy, Ngài giảng bài kinh Ovāda-pātimokkha(Giảithoát giáo), tóm tắt căn bản của giáo pháp giải thoát vàđời sống tu tập của bậc xuất gia như sau:

ChưPhật thường giảng dạy,
Nhẫn,khổ hạnh tối thượng,

Niết-bàn,quả tối thượng,

Xuấtgia không phá người,

Sa-mônkhông hại người.

Khônglàm mọi điều ác,
Thànhtựu các hạnh lành,

Giữtâm ý trong sạch,

Chínhlời chư Phật dạy.

Khôngphỉ báng, phá hoại,
Hộtrì giới căn bản,

Ănuống có tiết độ,

Sàngtọa chỗ nhàn tịnh,

Chuyênchú tăng thượng tâm,

Chínhlời chư Phật dạy.

Giớibổn căn bản này được ghi lại trong kinh Đại Bổn (TrườngBộ 14). Trong kinh Pháp Cú, ba câu kệ trên cũng được tìmthấy trong Phẩm Phật-đà, với câu kệ thứ hai được chuyểnthành câu kệ đầu (kệ số 183, 184, 185). Theo Chú Giải kinhPháp Cú, ba câu kệ này được Đức Phật nhắc lại lúc Ngàingụ ở tinh xá Kỳ Viên, để trả lời câu hỏi của Tôngiả A-nan.

Lúcđó, vào ngày Bố-tát đêm rằm tháng Magha, Tôn giả A-nan chợtnghĩ: "Ðức Thế Tôn đã dạy rõ về cha mẹ của bảy đờichư Phật, đã dạy về thọ mạng, cội cây của chư Phậtngồi thành đạo, đệ tử, vị thống lãnh Tăng đoàn và ngườingoại hộ chính thức. Tất cả điều đó đã được đứcThế Tôn nói rõ, nhưng Ngài không nói về phương cách giáogiới của bảy đời chư Phật trong ngày Bố-tát. Không biếtphương cách có giống như hôm nay hay khác?".

Nghĩthế, Tôn giả đến bạch Phật và thưa hỏi những điềunhư trên. Đức Phật trả lời:

- ChưPhật tuy khác nhau về thời gian bố-tát, nhưng tương đồngvề lời dạy khi giáo giới. Đó là:

Khônglàm mọi điều ác,
Thànhtựu các hạnh lành,

Giữtâm ý trong sạch,

Chínhlời chư Phật dạy. (PC 183)

ChưPhật thường giảng dạy,
Nhẫn,khổ hạnh tối thượng,

Niết-bàn,quả tối thượng,

Xuấtgia không phá người,

Sa-mônkhông hại người. (PC 184)

Khôngphỉ báng, phá hoại,
Hộtrì giới căn bản,

Ănuống có tiết độ,

Sàngtọa chỗ nhàn tịnh,

Chuyênchú tăng thượng tâm,

Chínhlời chư Phật dạy. (PC 185)

Lờigiáo giới trên chỉ được mỗi vị Phật tuyên bố lần đầutiên khi hội đủ 4 điều kiện (Caturansasan-nipāta):
-Ðúng vào ngày trăng tròn tháng Magha,
-Có các vị tỳ-khưu tự động đến bái kiến Ðức Phật,không hẹn trước,
-Các vị đó đều là Thánh tăng A-la-hán có lục thông, và
-Các vị đó đều xuất gia với Đức Phật như là Thiện LaiTỳ-Khưu (Ehi-bhikkhu).
Trongthời kỳ Đức Phật Thích Ca của chúng ta, số các vị tỳ-khưuđó là 1250 vị.

Vìthế, ngày rằm tháng Giêng mỗi năm được xem như là ngàylễ kỷ niệm Đại hội Chư Thánh Tăng. Ngày nầy được cửhành bằng nhiều hình thức nghi lễ khác nhau, như lễ hộiđặt bát đến chư Tăng, lễ thọ giới, lễ quy y, lễ thuyếtpháp, lễ nhiễu Phật, lễ thọ đầu đà, v.v. nhằm giúp ngườiPhật tử cư sĩ có cơ hội gieo duyên lành trong chánh pháp.Ðặc biệt là lễ thọ đầu đà (dhutanga), trong đó,các cư sĩ đến chùa, thọ bát quan trai giới, thức trọn đêmđể tham thiền, nghe pháp, tham vấn, luận đạo.

*

2)Phật Di Chúc

Trong45 năm hoằng pháp, Đức Phật truyền dạy tất cả nhữngđiều cần thiết cho những ai quyết tâm cố gắng theo chânNgài, cả bậc xuất gia lẫn hàng cư sĩ tại gia. Chẳng nhữngcác vị này đã nắm vững Giáo Lý mà còn có đủ khả năngđể rộng truyền đến kẻ khác. Như đã ghi lại trong kinhĐại Bát Niết Bàn (kinh số 16, Trường Bộ): "... Các vịđó đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, cókỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựuChánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp,sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng,trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có thểchất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyềnbá Chánh pháp một cách thần diệu". Vào năm tám mươituổi, Ngài quyết định từ bỏ từ bỏ thọ, hành, khôngduy trì mạng sống lâu hơn nữa. Lúc ấy, Ngài đang ngự tạithành Vesali.

Vàongày trăng tròn tháng Magha, sau khi đi khất thực và thọ trai,Ngài đến nghỉ trưa tại đền Capala. Sau đó, Ngài cùng Tôngiả A-nan đi đến giảng đường Kutagara tại rừng Ðại Lâm.Ngài bảo Tôn giả A-nan đi mời tất cả Tỳ-khưu sống ởgần Vesali tụ họp tại giảng đường này.

ĐứcThế Tôn nói với các vị Tỳ-khưu:

-"Này các Tỳ-khưu, những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy,quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyềnrộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnhphúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thươngtưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc choloài Trời và loài Người.

Nàycác Tỳ-khưu, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảngdạy, quý vị phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập vàtruyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu,vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòngthương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì anlạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ,Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đềphần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỳ-khưu, chính nhữngpháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà quý vị phảikhéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạmhạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúngsinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnhphúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".

RồiNgài nói với các Tỳ-khưu:

-"Này các Tỳ-khưu, đây là lời Ta nhắn nhủ quý vị. Cáchành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát,vì không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầutừ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".

Ðólà lời Đức Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Ngài lại nóithêm:

Tađã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từbiệt quý vị, Ta đi một mình.

Tựmình làm sở y cho chính mình,

Hãytinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,

Nhiếpthúc ý chí, bảo hộ tự tâm.

Aitinh tấn trong Pháp và Luật này

Sẽdiệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.
Dựavào sự kiện lịch sử đó, ngày rằm tháng Magha (tháng Giêngâm lịch) mỗi năm được hàng Phật tử trong truyền thốngNguyên thủy tổ chức để kỷ niệm ngày Phật Di Chúc, 3 thángtrước khi Ngài nhập diệt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 7500)
Thông thường cho rằng, muốn hiểu được nhân quả trong ba đời thì phải có túc mạng thông để biết các sự vật thuộc đời quá khứ, phải có thiên nhãn thông để biết các chuyện vị lai. Đó là một quan điểm hình như đúng mà thực ra là sai.
28/12/2010(Xem: 6769)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chí và nghị lực. Thứ nhất: “Học để biết cách hiếu thảo với ông bà cha mẹ”. Cây có cội, nước có nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Biết ơn và đền ơn là quy tắc đạo thờ ông bà tổ tiên dân tộc Việt Nam và người tu theo đạo Phật. Thứ hai: Học để biết ơn thầy tổ. Thầy ở đây bao gồm thầy dạy chữ và dạy nghề nghiệp. Ngoài ra ta còn biết ơn thầy dạy về đạo đức luân lý sống trong xã hội. Trước tiên là học lễ phép, sau đó mới học chữ và học nghề chân chính. Thứ ba: Học để biết ơn đất nước, ơn các vị lãnh đạo có công giúp cho mọi người ổn định về đời sống an sinh xã hội và biết ơn các anh hùng nghĩa tử.
28/12/2010(Xem: 7320)
Hầu hết chúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối". Giàu thì mình muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mình sang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơn tất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bực dọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnh phúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc than trách người thân của mình sao không được như ý mình muốn. Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu "cuộc đời tương đối mà!"
26/12/2010(Xem: 11869)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
25/12/2010(Xem: 9619)
Gần ¼ thế kỷ trong nghề đâm heo thuốc chó tại xứ người, tác giả có nhận xét chủ quan là hình như loài vật cũng có một thứ tình cảm, một linh cảm nào đó...
24/12/2010(Xem: 20395)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
23/12/2010(Xem: 6798)
Trả lời phỏng vấn của Tuần báo Pháp Le Point, đức Dalai Lama thứ 14 nghiêm khắc phê phán chủ trương cải đạo của người theo đạo Thiên chúa. Theo ngài đó một việc hoàn toàn lỗi thời và quá xa xưa.
19/12/2010(Xem: 19168)
Hoàngđế A-dục trị vì nước Ấn vào thế kỷ thứ III trướcTây lịch và cũng là một trong những nhân vật sáng chói nhấttrong lịch sử Phật giáo. Là vị hoàng đế nổi tiếng nhấtcủa triều đại Maurya ông đã thống nhất gần toàn thểbán lục địa Ấn độ. Dưới triều đại của ông,văn hóa được phát triển cao độ và cũng là lần đầu tiêntrong lịch sử nước Ấn mà sử liệu thật phong phú ghi chépbằng chữ viết còn lưu lại đến ngày nay. Nghệ thuật tiêubiểu và đặc trưng nhất cho nền văn hóa Ấn độ nói chungcũng đã phát sinh trong thời kỳ này.
19/12/2010(Xem: 8897)
Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma được chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Ngài. Sách gồm VI chương, dày 192 trang và sau đây là chương V của quyển sách mang tựa đề "Cẩm nang cho cuộc sống".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]