Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Thương yêu là thông cảm

07/02/201109:32(Xem: 10131)
01. Thương yêu là thông cảm

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-01-

Thươngyêu là thông cảm

Tỳ-khưuVisuddhicara
BìnhAnson trích dịch

Khichúng ta nhận thức được trên thế gian này, nhân loại vàcác loài chúng sinh khác đều chịu quá nhiều đau khổ, việctối thiểu mà ta có thể làm được khi còn sống là góp phầnvào việc làm giảm bớt nỗi khổ đau ở chung quanh ta.

Cónhiều người phục vụ nhân loại bằng nhiều cách tuyệtvời. Họ đã và đang góp phần thiện nguyện cung cấp dịchvụ an sinh xã hội, trợ giúp người bệnh, người tàn tật,người nghèo đói, người già, người sắp chết và nhữngngười đang lâm cảnh khó khăn. Tất cả những bậc khai sángtôn giáo đều dạy các tín đồ phải làm việc từ thiện.Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóanhưng chúng ta tin vào lòng tốt và giữ giới không sát hạisinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả - làm tốtthì được tốt và làm xấu thì bị xấu. Do đó, chúng taluôn luôn cố gắng tu tập làm điều thiện lành, tránh cácđiều bất thiện như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,uống rượu hoặc dùng các chất say. Chúng ta tu tập để đạttới mức độ mình làm việc thiện là vì đó là việc thiện,chứ không phải vì sợ bị đọa xuống địa ngục hoặc vìmuốn được ân thưởng về sau. Chúng ta làm tốt vì ta vuithích làm tốt, và tự nhiên ta có khuynh hướng làm tốt. Nóicách khác, chúng ta không còn biết làm gì hơn là làm thiện,làm tốt. Thiện và ta là một.

ĐứcPhật dạy hàng đệ tử phải có lòng từ thiện và quan tâmđến người khác. Khi dạy về lòng bố thí, Ngài nói bấtcứ một nỗ lực nhỏ nào cũng quý. Ngay cả ném vụn bánhmì xuống nước để cho cá ăn cũng được Đức Phật khenngợi. Một lần nọ, khi vài Tỳ-khưu không chăm sóc một vịTỳ-khưu đang bị bệnh kiết lỵ, Đức Phật đã tự tay tắmrửa cho vị Tỳ-khưu đó và khiển trách các vị kia, nói rằng:"Ai chăm sóc người bệnh, người ấy chăm sóc Như Lai" (MahavaggaVIII 26.1-8). Đức Phật khuyến khích các bậc vua chúa nêncai trị xứ sở với lòng từ ái. Ngài khuyên họ nên diệttrừ nạn nghèo đói, vì đó là nguyên nhân sinh ra trộm cướpvà các tội ác khác. Vốn là một người yêu chuộng hòa bình,Đức Phật đã từng đứng ra can gián khi hai bộ tộc có ýđịnh gây chiến chỉ vì tranh giành một khúc sông. Đức Phậthỏi: "Cái gì quan trọng hơn - nước sông hay máu người đổxuống vì chiến tranh?". Hai bộ tộc nhận ra sự phi lý củacuộc tranh chấp và quyết định rút quân, không đánh nhaunữa.

Mộttrong những vị vua nhân từ nhất, chịu ảnh hưởng giáo phápcủa Đức Phật, là vua A Dục, trị vì Ấn độ vào thế kỷthứ ba trước Tây lịch, khoảng 200 năm sau khi Đức Phậtnhập diệt. Nổi tiếng về lòng nhân đạo, vua A Dục còncó lòng rộng rãi từ tâm đến cả loài thú. Ngài gửi cácy sĩ đến chữa bệnh cho cả người lẫn thú. Ngài xây nhànghỉ cho khách lữ hành, và dưỡng đường cho người nghèovà người bệnh. Mặc dù là một Phật tử thuần thành, vuaA Dục cũng cho phép dân chúng được tin theo bất cứ đạogiáo nào và hỗ trợ sự sinh hoạt của mọi giáo phái. VuaA Dục xem vai trò của mình là một người lãnh đạo nhântừ, lúc nào cũng mong người dân được thịnh vượng vàhạnh phúc.

Chúngta cũng vậy, nếu chúng ta theo lời Phật dạy, ta sẽ có nhữnghành động tương tự như vua A Dục để làm giảm thiểu sựđau khổ, mở rộng hòa bình và hạnh phúc. Chính Đức Phậtlà một tấm gương tốt đẹp nhất để chúng ta noi theo, vìNgài đã dành trọn cuộc đời của mình để dạy cho mọingười thấy được con đường thoát khổ. Ngài không nhữngchỉ muốn làm giảm khổ mà Ngài còn chỉ dạy con đườngđưa đến diệt khổ một cách rốt ráo. Sau khi chứng ngộ,Ngài dùng trọn 45 năm còn lại của đời mình để dạy chúngta cách thức diệt khổ. Ngài dạy con đường tỉnh giác.

ĐứcPhật nhận ra rằng chỉ bằng cách tu tập thật rốt ráo thìngười ta mới có thể diệt khổ. Mặc dù việc săn sóc ngườiđau ốm, chữa lành bệnh tật, cung cấp thực phẩm và giúpđỡ vật chất cho người bần hàn là một phần của việccứu khổ, nhưng đó chỉ là chữa những triệu chứng. ĐứcPhật muốn tìm một sự chữa trị dứt hoàn toàncơnbệnh khổ. Do đó, Ngài suy nghiệm toàn bộ vấn đề sinh vàtử. Để giải quyết vấn đề ở tận gốc rễ của nó,Ngài thấy chúng ta cần phải hay đổi tâm thức một cáchrốt ráo. Sự đau khổ chủ yếu là do nơi tâm. Khi một ngườibị đau đớn về thể xác, người đó thường phản ứngbằng sự buồn rầu, sợ hãi và chán nản. Nhưng Đức Phậtnói nếu là một người biết hành thiền thì người đó cóthể chịu đuợc cơn đau thể xác mà không bị đau về tinhthần. "Thân có đau, nhưng đừng để tâm đau theo", Ngàidạy như thế. Nói cách khác, người ấy không phản ứng vớicơn đau bằng sự buồn rầu, lo âu, chán nản, oán ghét, sânhận, v.v. Ngược lại, người ấy phản ứng với một tâman định và bình thản. Người ấy vẫn vui vẻ và còn cóthể an ủi khuyến khích những người khác nữa.

Vấnđề chủ yếu là do ở Tâm. Nếu chúng ta loại trừ đượctham, sân, si ra khỏi tâm thức mình, chúng ta có thể hoàn toànchế ngự và tiêu diệt được sự khổ não về tinh thần,như băn khoăn và lo lắng, sầu não và than van. Ta phải thừanhận rằng đau đớn thể chất là điều không thể tránhkhỏi khi ta còn hiện hữu với cái thân xác này. Tất cảchúng ta đều biết sự thật là không ai có thể thoát khỏigià lão, bệnh hoạn, tử vong. Nhưng Đức Phật nói một khitâm chúng ta được thanh tịnh, không còn mọi bợn nhơ củatham, sân, si, thì cơn đau thể xác không còn làm ta sợ hãinữa. Không gì lay chuyển ta được nữa. Không gì làm ta tứcbực được nữa, dù đó là cơn đau đớn kịch liệt củanhững loại bệnh nan y. Tâm ta có thể vẫn giữ điềm nhiên.Vì vậy, có lần ngài Anuruddha (A-nậu-lâu-đà), một vị đạiđệ tử của Đức Phật, được hỏi là làm sao ngài có thểgiữ sự an nhiên khi bị bệnh nặng, ngài trả lời rằng đólà vì ngài đã làm chủ được tâm của mình qua việc hànhthiền giác niệm do Đức Phật dạy.

Ngoàira, Đức Phật cũng dạy là nếu người nào đã đạt đếnmức độ diệt được tham, sân, si, thì sẽ không còn phảitái sinh nữa. Khi người ấy chết, đó là kiếp cuối củabậc thánh A-la-hán. Người ấy đã đạt đến trạng tháiNiết Bàn an lạc, vô sinh. Vì không còn tái sinh, người ấykhông còn phải trải qua cảnh lão, bệnh, tử. Đức Phậtnói, đó mới là diệt khổ.

Giảmthiểu phiền khổ

Trêncon đường nỗ lực tinh tấn chấm dứt hoàn toàn sự khổ,chúng ta nên giúp cứu khổ bằng mọi cách trong khả năng củamình. Thế gian này không thiếu gì những cảnh khổ ải. Conngười gánh chịu khổ não qua nhiều cách khác nhau. Khi đọctin tức trên báo chí, ta thấy cái khổ ở mọi nơi. Ngườita cãi nhau, đánh nhau, giết nhau, cướp bóc, dối trá, lừađảo, và gây khổ cho nhau bằng đủ mọi cách. Chúng ta làmkhổ cho nhau, do sự mê muội của chúng ta. Ngoài ra, còn biếtbao thiên tai, tai nạn, rủi ro, đói khát, bệnh tật. Và cảnhlão, bệnh, tử luôn luôn theo sát chúng ta từng bước.

Thựcthế, thế gian này tràn đầy khổ ải. Tại sao chúng ta lạiđổ thêm khổ ải vào đó? Tại sao chúng ta không chịu dấnthân, giúp làm giảm bớt khổ ải? Ngay cả nếu không làmđược nhiều, chúng ta cũng có thể làm được chút ít. Mọinỗ lực, dù lớn dù nhỏ, đều tốt cả. Như là có ngườiđã nói: "Không có sự sai lầm nào lớn hơn sự sai lầmlà mình không chịu làm gì cả bởi vì nghĩ rằng mình chỉcó thể làm được quá ít". Mỗi chúng ta đều có thểlàm được một chút ít gì đó, tùy theo hoàn cảnh và khảnăng của mình. Trước hết, chúng ta có thể bắt đầu bằngcách ăn ở, cư xử tử tế hơn. Chúng ta có thể kiểm soátcơn giận của chúng ta. Mỗi khi giận dữ, chúng ta gây khổnão cho chính mình và người khác. Nhưng nếu chúng ta kiểmsoát được sự giận dữ và nuôi dưỡng lòng bao dung và nhẫnnại, tình thương và từ tâm, chúng ta trở thành những ngườitử tế hơn, và điều đó sẽ giúp mang niềm vui và hạnhphúc đến cho người khác.

Nóicách khác, chúng ta bắt đầu bằng cách thanh tịnh tâm, trừkhử mầm mống bất thiện và tiêu cực của tham, sân, si.Dựa vào khả năng kiểm soát được các trạng thái bất thiệnnày, chúng ta phát triển tình thương và tâm từ. Chúng ta trởnên tử tế hơn trong quan hệ với những người chung quanh.Chúng ta nói chuyện một cách thương yêu và dịu dàng hơn,và tránh những lời cộc cằn lỗ mãng, châm biếm mỉa mai.Chúng ta trở nên quan tâm nhiều hơn về sự an vui của ngườikhác. Nếu chỉ biết lo cho chính quyền lợi của mình thìchúng ta sẽ không thể mở rộng lòng thương yêu. Muốn cótình thương yêu, chúng ta phải biết quan tâm đến ngườikhác, chứ không phải chỉ riêng có bản thân mình. Vì vậy,chúng ta phải tự hỏi, mình có thương yêu đủ chưa? Mìnhcó quan tâm đủ chưa? Nếu chưa, thì chúng ta chưa thể làmgì để giảm bớt sự khổ. Bởi chính từ tình thương yêuthật sự mà chúng ta mới có những hành động cụ thể.

Mỗingười chúng ta đóng góp theo cách riêng của mình, theo bấtcứ cách thức nào mà mình biết. Chẳng hạn, chúng ta có thểđóng góp bằng cách chia sẻ kiến thức về Phật Pháp màmình biết, cho dù sự hiểu biết của mình còn rất hạn chế.Ta có thể khuyến khích mọi người hành thiền và hướngdẫn họ chút ít trên đường tu học. Ta có thể kêu gọimọi người thương yêu, quan tâm đến nhau hơn, tử tế vàkiên nhẫn với nhau hơn, v.v. Dĩ nhiên chúng ta không hoàn toàn,và có những lúc, chúng ta không làm tròn vai trò của mình.Có câu tục ngữ nói rất đúng, rằng: "Nói thì dễ, nhưnglàm được lời mình nói thì rất khó". Vì vậy, ta cũngnên là người đầu tiên đứng ra nhìn nhận những nhượcđiểm của mình và chấp nhận sửa sai. Chúng ta thường cótác ý tốt và không có ý định hại ai. Nhưng do sự sơ hở,kiêu căng, thiếu hiểu biết, thiếu nhẫn nại, thiếu bao dung,v.v., chúng ta có thể làm khổ phiền người khác, cho dù chúngta có ý định tốt. Nhưng một người có tâm hồn cao thượngsẽ thông cảm và tha thứ cho ta. Khả năng tha thứ là mộtđức tính tuyệt vời, vì vậy mới có câu: "Lầm lỗi làngười, tha thứ là thánh".

Bạncứ sẵn sàng cống hiến, đóng góp, bố thí, và chỉ có bạnmới biết cách nào mình có thể đóng góp hay nhất, tốt nhất.Mỗi người chúng ta đều có sở trường, tài nghệ và năngkhiếu khác nhau. Điều kiện và hoàn cảnh mỗi người mộtkhác, cho nên chúng ta đóng góp theo cách thức riêng của mình,tùy theo điều kiện và căn duyên của mình. Điều quan trọnglà ta có cố gắng, ta làm theo khả năng của mình. Bất cứmột đóng góp nhỏ nhặt nào cũng tốt, và sau một thời gianthì ta sẽ nhận ra rằng mình đã làm được khá nhiều việc.Và đó là dịp để ta hoan hỉ. Dĩ nhiên điều đó không cónghĩa là ta nên ngừng nghỉ trên sự hoan hỉ đó. Còn rấtnhiều việc phải làm, cho nên ta phải tiếp tục nỗ lực,tiếp tục tinh tấn thêm.

Thươngyêu là thông cảm

Muốnchết lành, chúng ta phải sống tốt. Nếu đã sống tốt thìchúng ta có thể chết lành, không hối tiếc. Chúng ta ra đibình an, hài lòng rằng mình đã làm tất cả những gì mìnhcó thể làm được, rằng trong đời mình đã chia sẻ sựcảm thông và hạnh phúc, rằng mình đã sống theo những nguyêntắc của mình dựa trên tình yêu thương của tâm từ.

Thươngyêu là thông cảm. Tình thương yêu không phán xét hay lên án.Tình thương yêu lắng nghe và thông hiểu. Tình thương yêuquan tâm và có thiện cảm. Tình thương yêu chấp nhận vàtha thứ. Tình thương yêu không có ranh giới. Tình thương yêukhông phân biệt, không nói: Tôi theo Nam tông, anh theo Bắc tônghoặc Mật tông. Tình thương yêu không nói: Tôi theo Phật giáocòn anh theo Thiên chúa giáo, Hồi giáo, hoặc Ấn độ giáo.Hoặc tôi là người Hoa, chị là người Mã lai, ông kia làngười Ấn, bà nọ là người Âu. Hoặc tôi là người Đôngphương, còn anh là người Tây phương; hoặc tôi là ngườiMã lai, anh là người Nhật, chị là người Mỹ, người Miến,người Thái, v.v.

Tìnhthương yêu vượt qua mọi rào cản. Tình thương yêu thấyvà cảm nhận được chúng ta đều cùng một giống, đó lànhân loại. Nước mắt chúng ta đều như nhau, chúng đều mặn,và máu chúng ta đều đỏ. Khi đã có tình thương yêu và từtâm, chúng ta có thể thông cảm với người khác. Chúng tathấy rằng mình cùng đi trên một con thuyền trong cơn sónggió biển cả cuộc đời. Chúng ta là bạn khổ đồng hànhtrong biển trầm luân, cái vòng sinh tử luân hồi trong cõiTa-bà. Chúng ta là anh chị em lẫn nhau qua nhiều đời, nhiềukiếp.

Mộtkhi chúng ta đã thấy và cảm nhận điều này, mọi rào cảnvề chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán, v.v.sẽ sụp đổ. Chúng ta mở rộng cánh tay với trái tim yêuthương thuần tịnh. Chúng ta hiểu và cảm nhận được cáikhổ của người khác. Tâm từ bao trùm thân ta. Trong lời nóihoặc hành động của chúng ta, người khác cảm nhận đượctình thương yêu và tâm từ này. Nó làm an dịu và chữa lànhkhổ ải của mọi người. Nó góp phần vào nền hòa bìnhvà sự cảm thông trên thế giới.

Chuyệncon bọ cạp

Tìnhthương yêu đi đôi với tâm từ. Khi có được một trái timthương yêu, tâm từ sẽ nổi lên dễ dàng trong ta. Mỗi lầnthấy một người chịu khổ, ta tự cảm thấy mình cần phảilàm điều gì đó để giúp giảm sự khổ cho người ấy.Tâm từ tạo ra một đức tính muốn loại trừ hết mọi sựkhổ. Chúng ta có thể nhận ra ngay điều đó, khi ta có hànhđộng tức thời để chấm dứt hoặc giảm bớt nỗi khổcủa một người nào.

Câuchuyện sau đây sẽ giúp hiểu rõ hơn: Một người nọ thấycon bọ cạp sắp chết đuối trong một vũng nước. Tự nhiênmuốn cứu giúp nó, ông ta nhanh nhẹn đưa tay ra vớt con bọcạp khỏi vũng nước, đặt nó xuống chỗ khô ráo. Con bọcạp liền chích ông ta. Vì muốn qua đường, nó đi tiếp vàlại lọt vào vũng nước. Thấy nó sắp chết đuối, ngườiđàn ông vớt nó lên lần thứ hai và lại bị nó chích nữa.Một người khác bên đường thấy vậy bèn nói: "Tại saoông dại quá vậy? Bây giờ ông bị chích chẳng những mộtlần mà đến hai lần! Thật là điên rồ khi phải cứu vớtmột con bọ cạp!" Người đàn ông trả lời: "Thưa ông, tôikhông thể không làm được. Ông thấy không, bản tính củacon bọ cạp là chích. Còn bản tính của tôi là cứu. Tôikhông thể làm gì khác hơn là cứu con bọ cạp."

Ngườiđàn ông nọ có lẽ nên dùng trí khôn và lấy một que câyđể vớt con bọ cạp. Nhưng có thể ông ta nghĩ rằng mìnhcó thể vớt nó bằng tay với một cách nào đó để khỏibị chích. Hoặc ông ta có thể nghĩ rằng một con bọ cạptrong cơn hoạn nạn như vậy sẽ không chích mình. Trong bấtcứ trường hợp nào, bài học của câu chuyện này là phảnứng tức thời của người đàn ông muốn cứu một sinh mạngkhác, dù đó chỉ là một loại côn trùng. Nó cũng cho thấyngười này có tâm từ cao quý đến độ cho dù mình chỉ nhậnsự vô ơn của người mình giúp, điều đó cũng không sao.Đức tính của ông ta là lòng giúp đỡ, và nếu phải giúpnữa thì ông cũng làm. Ông ta không biết ghi giữ trong lòngmột sự cay đắng thù hận nào.

Dođó, lòng từ ái là ngôn ngữ của con tim. Khi có được tìnhthương yêu và lòng từ ái thúc đẩy, chúng ta sẵn sàng giúpđỡ người khác, bất kể màu da, tôn giáo, quốc tịch. Khiđã có từ tâm thì việc xác định màu da, tín ngưỡng v.v.trở thành thứ yếu, không còn quan trọng nữa.

Nếucố gắng nuôi dưỡng loại tình thương yêu và từ tâm nhưvậy, khi đến lúc chết, chúng ta sẽ ra đi một cách bìnhan, thanh thản. Ngay cả nếu chưa thành công một trăm phầntrăm trong nỗ lực thương yêu toàn hảo, chúng ta vẫn có thểvui sướng và hài lòng là mình đã cố gắng hết sức. Vàchắc chắn là chúng ta đã thành công trong một mức độ nàođó.

Ngũgiới

Nếuchúng ta đã cố gắng nuôi dưỡng loại tình thương yêu nhưvậy, thì việc giữ năm giới sẽ không phải là quá khó.Khi giữ trọn vẹn năm giới này - không sát sinh, trộm cắp,tà dâm, nói dối, uống rượu hoặc dùng các chất say - tamang hạnh phúc và sự an toàn đến người khác. Bằng cáchnào? Là vì không ai phải lo sợ về chúng ta. Họ không phảisợ hãi, e ngại; trái lại, họ cảm thấy rất an toàn vàthoải mái khi gần gũi chúng ta. Họ cảm thấy an tâm là chúngta không làm hại họ, cướp của, hoặc lừa dối họ. Chúngta không dan díu với vợ hay chồng của họ. Chúng ta khôngnói dối với họ. Hơn nữa, nếu chúng ta không uống rượu,họ không phải lo lắng về chuyện con cái họ có thể bắtchước thói uống rượu của chúng ta. Họ cảm thấy có thểtin tưởng chúng ta vì chúng ta không uống rượu say sưa. Chúngta sùng đạo và thực hành con đường thiện lành, ngay thẳng.Chúng ta là những người vô hại. Người nào còn ham muốnthú vui với cảm giác mạnh có thể nghĩ rằng chúng ta cómột cuộc đời nhàm chán, và chúng ta là người điên rồ,ngu dại. Nhưng điều đó không quan trọng. Chúng ta vui vẻchấp nhận con người của mình. Và người nào có sự hiểubiết minh triết sẽ ngợi khen chúng ta.

Vậythì việc chúng ta giữ năm giới là điều tốt. Hơn nữa,ta còn thực hành lòng bố thí rộng rãi và tử tế. Ta quantâm và chia sẻ những gì chúng ta có thể cung hiến. Ta cốgắng tăng trưởng sự giác niệm mà Đức Phật đã dạy,tinh tấn sống một cuộc đời trong tỉnh giác. Ta hành thiềnđể hiểu rõ hơn về bản chất của sự hiện hữu, về nhữngđặc tính vô thường, khổ và vô ngã của đời sống. Chonên, khi đã làm hết mọi việc đó - trong đạo Phật gọilà bố thí, trì giới, tham thiền, khi đã sống một cuộcđời tốt đẹp, ta còn gì để sợ khi chết? Ta còn gì đểân hận?

*

Chínhvì vậy, muốn có một cái chết tốt thì phải có một cuộcsống tốt. Và khi đã sống đẹp, ta có thể chết đẹp. Tara đi bình an, hài lòng rằng mình đã làm tất cả những gìmình có thể làm được. Chúng ta có thể còn phạm vài lỗilầm trong cuộc sống. Nhưng có mấy ai sống mà không phạmlỗi lầm? Là phàm nhân chưa giác ngộ, ta có thể đã làmmột số việc sai quấy. Điều đó dễ hiểu, vì không ai hoàntoàn cả. Nhưng điều quan trọng là một khi nhận ra nhữngsai lầm đó, ta bắt đầu vun trồng tình thương yêu và từtâm, bắt đầu gìn giữ giới hạnh và thanh lọc tâm thứccủa mình. Ta vui sướng vì mình còn có đủ thì giờ và cơduyên để chuyển sang con đường đúng đắn của Chánh Pháp,đưa đến giải thoát tối hậu. Như người ta thường nói:"Thàtrễ còn hơn không". Chúng ta có thể đến nơi đó có phầnchậm trễ hơn nhiều người khác, nhưng ít ra, ta vẫn có thểtiến đến đó được.

(Tríchdịch: "Loving And Dying",
BhikkhuVisuddhicara)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2020(Xem: 4885)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4638)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 17563)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4413)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
31/10/2020(Xem: 5568)
Hòa thượng họ Khổng (sau khi hoạt động Phật giáo Cứu quốc, do hoàn cảnh mới đổi thành họ Nguyễn) húy Hồng Hạnh, hiệu Vĩnh Đạt, thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, sinh năm Tân Hợi (1911), niên hiệu Duy Tân năm thứ 5, tại xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình làm nghề nông sùng mộ đạo Phật. Hạt giống bồ đề khơi mầm, vườn hoa Bát nhã nở hoa, ấu niên 9 tuổi, những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, ngài trở thành chú tiểu đệ tử của đại lão Thiền sư Khánh Thông, Tổ đình Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri. Hòa thượng Bổn sư cho ngài thọ giới sa di vào ngày mùng Một tháng 07 năm Tân Dậu (1921) tại Bổn tự Bửu Sơn do bổn sư của ngài đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
31/10/2020(Xem: 7560)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Chưa lúc nào bản thân chúng tôi thấm thía Lý Duyên Sinh Phật dạy như lúc này. Quả thật..''Cái này sinh thì cái kia sinh'', chân lý này vận hành trong mọi sự vật và mọi sự kiện, bởi vậy một khi Dịch Covid còn kéo dài là nạn đói xứ Ấn còn tiếp tục lê thê..
29/10/2020(Xem: 4622)
Dharamshala: Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã thông báo Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân đã được 50 quốc gia phê chuẩn là Honduras, cho phép “văn bản lịch sử” bắt đầu có hiệu lực sau 90 ngày. Khôi nguyên Nobel Hòa bình, lãnh tụ tinh thần lưu vong của Tây Tạng, là người ủng hộ suốt đời cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân, Đức Đạt Lai Lạt Ma hoan nghênh thông tin, ca ngợi hiệp ước “một bước đi đúng hướng để tìm ra những thỏa thuận sáng suốt và văn minh hơn để giải quyết xung đột”.
29/10/2020(Xem: 4785)
Cư sĩ Phan Cơ Văn (Ban Ki-moon-반기문-潘基文, hậu duệ cụ Phan Huy Chú, Việt Nam), cựu Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, đương nhiệm Chủ tịch “Hội đồng quốc gia về khí hậu và chất lượng không khí” đã đến viếng cố Cư sĩ Lee Kun Hee (Lý Kiện Hy, 이건희, 李健熙), pháp danh Trọng Đức (중덕-重德), pháp hiệu Trọng San (중산- 重山), Đại hộ pháp (대호법-大護法), đệ tử tông phái Phật giáo Won Hàn Quốc, nhà tư bản công nghiệp, doanh nhân Phật tử, tỷ phú người Hàn Quốc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị tập đoàn Samsung tại nhà Tang lễ Bệnh viện Samsung, Ilwon-dong, Gangnam-gu, Seoul lúc 3:06 chiều ngày 26 tháng 10 năm 2020. Khoảng 15 phút phúng viếng và chia buồn cùng tang môn hiếu quyến. Ngay sau khi lễ viếng và chia buồn, Chủ tịch Samsung Electronics Cư sĩ Lee In-yong đã đưa tiễn Ngài cựu Tổng Thư ký LHQ ra về. Ảnh: Jeong Ye-rin
27/10/2020(Xem: 5791)
Thấm thoát mà hôm nay ngày 11.8. Canh Tý, nhằm chủ nhật 27.9 đã thất tuần rồi. Dì dâng hương hoa cúng Mười Phương Chư Phật cũng như cơm canh để cúng cửu huyền thất tổ, hương hồn con linh thiêng về đây cùng ngồi tụng kinh Địa Tạng với dì, dì cháu mình cùng đảnh lễ xưng danh hiệu chư Phật phẩm thứ chín hầu mong đem lại lợi ích được cho tất cả những loài hữu hình hay vô hình nếu ai đó hữu duyên để lắng nghe lời Phật dạy:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]