Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Nhập dòng giải thoát

07/02/201109:32(Xem: 10331)
08. Nhập dòng giải thoát

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549
-08-

Nhậpdòng giải thoát

Trongkinh điển thường đề cập đến bốn quả vị mà ngườicon Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đếnNiết Bàn. Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc- hoặc các chặng đường - trên hành trình thanh lọc tâm ý,tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, thường đượcgọi là mười kiết sử hay thằng thúc (samyojana), tróibuộc chúng sinh vào vòng luân hồi.

Bốnquả vị đó là:

-Dự lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn),
-Nhất lai (Sakadāgāmi, Tư-đà-hàm),
-Bất lai (Anāgāmi, A-na-hàm),
-A-la-hán (Arahat, Ứng cúng).
Mườikiết sử là:
-thân kiến (sakkāya-ditthi),
-hoài nghi (vicikicchā),
-giới cấm thủ (silabata-parāmāsa)
-tham đắm vào cõi dục (kāma-rāga)
-sân hận (vyāpāda),
-tham đắm vào cõi sắc (rūpa-rāga),
-tham đắm vào cõi vô sắc (arūpa-rāga),
-mạn (māna),
-trạo cử vi tế (uddhacca),
-si vi tế (avijjā).
Trongnhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quảthánh đó như sau:

"...Có những Tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đãđoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữukiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánhtrí.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ nămhạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở đấy được nhậpNiết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiếtsử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sanh vào đờinày một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiếtsử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giácngộ". - (Trung bộ, 118)

*

Ngườiđạt quả Dự lưulà người đã đoạn trừ ba kiếtsử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Ngườinầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giảithoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làmngười hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp, vìvậy có sách gọi là quả Thất lai. Người nầy còn đượcgọi là đã mở "Pháp nhãn", vì người ấy đã bắt đầucó thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng ChánhPháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như làmột bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắcvà tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nàovề sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoàinghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghivề con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giácngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đãđi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoáttối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng NiếtBàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thứclễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.

Thânkiến, kiết sử đầu tiên, là sự hiểu sai lạc về cái gọilà Tự ngã, hay cái Tôi, đồng hóa nó với một trong năm uẩn(sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong bài kinh số 44, thuộcTrung Bộ, Ni sư Dhammadina giảng rằng một người đã đoạntrừ thân kiến là một người "không xem sắc là tự ngã,không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã,không xem tự ngã là trong sắc", tương tự như thế đốivới bốn uẩn còn lại.

Cóngười thường hiểu lầm về chữ "hoài nghi" dùng ở đây.Tiếng Pāli là "vicikicchā", thường dùng để chỉ tháiđộ nghi ngờ về Phật Pháp Tăng và về lý Duyên sinh. NgàiPhật Âm (Buddhaghosa), trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo,nói rằng vicikicchācòn là một thái độ do dự, khôngnhất quyết, không sẵn sàng tra vấn, học hỏi. Do đó cầnphải đoạn trừ kiết sử nầy. Ðức Phật khuyến khích chúngta phải biết nỗ lực suy tư, luận giải và chứng nghiệmngay trong đời sống hằng ngày, vì Pháp là "mời mọi ngườiđến xem xét" (ehipassika). Ðể rồi chúng ta thấy, biếtrõ ràng sự ích lợi của Phật Pháp cho con đường hành trìcủa ta, và từ đó, có một niềm tin vững chắc vào Tam Bảo,không còn thắc mắc, phân vân, hay do dự gì nữa.

Chữ"giới cấm thủ" cũng thường bị hiểu lầm. Ở đây đểchỉ thái độ mê tín mù quáng, bám thủ vào các hình thứclễ nghi, tin rằng làm như thế là đủ để thanh lọc tâm.Đoạn trừ giới cấm thủ không có nghĩa là một thái độbuông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh.Trái lại, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giớiluật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyệntâm, nhưng lại không mù quáng, không quá lệ thuộc vào cáchình thức giáo điều. Một người không còn giới cấm thủlà một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, nhưngsống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn xemđó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình.

Đểtrừ khử các kiết sử trên, Đức Phật khuyên chúng ta phảinỗ lực thực hành bốn điều: (1) thân cận bậc chân nhân,(2) lắng nghe diệu pháp, (3) như lý tác ý, và (4) thực hànhpháp và tùy pháp, như đã ghi trong Tương Ưng 55.11:

"Thâncận bậc Chân nhân là Dự lưu phần.
Nghediệu pháp là Dự lưu phần.

Nhưlý tác ý là Dự lưu phần.

Thựchành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần".
RồiNgài giảng về sự liên quan của bốn pháp trên:

-"Này các Tỳ-khưu, giao thiệp với bậc Chân nhân được viênmãn thời làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp đượcviên mãn thời làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn,thời làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viênmãn, thời làm viên mãn chánh niệm tỉnh giác; chánh niệmtỉnh giác được viên mãn, thời làm viên mãn các căn đượcchế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn, thờilàm viên mãn Ba thiện hành; Ba thiện hành được viên mãn,thời làm viên mãn Bốn niệm xứ; Bốn niệm xứ được viênmãn, thời làm viên mãn Bảy giác chi; Bảy giác chi đượcviên mãn, thời làm viên mãn Minh giải thoát" (Tăng Chi 10.61).

Vềthân cận bậc chân nhân, Ngài giảng:

-"Thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, thiện nam tử sốngtại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay conngười gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức,hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức,đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí,đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận.Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập vớiđầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức,vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những ngườiđầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí.Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập vớiđầy đủ trí tuệ. Đây gọi là làm bạn với thiện" (TăngChi 8.54).

RồiNgài khuyên:

Nếuthấy bậc hiền trí,
Chỉlỗi và khiển trách,

Nhưchỉ chỗ chôn vàng,

Hãythân cận người trí!

Thâncận người như vậy,

Chỉtốt hơn, không xấu. (Pháp Cú, 76)

Chớthân với bạn ác,
Chớthân kẻ tiểu nhân.

Hãythân người bạn lành,

Hãythân bậc thượng nhân. (Pháp Cú, 78)

ĐứcPhật đề cập đến 5 lợi ích của việc biết nghe diệupháp: (1) được nghe điều chưa nghe, (2) làm cho trong sạchđiều được nghe, (3) đoạn trừ nghi, (4) làm cho tri kiếnchánh trực, và (5) làm cho tâm tịnh tín (Tăng Chi, 5.202).

Trongkinh "Tất cả các lậu hoặc" (Trung Bộ 2), Đức Phật dạyvề pháp như lý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩcủa mình sao cho có lợi lạc trên đường tu tập, như sau:

-"Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý vàvị ấy tác ý? Này các Tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấytác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậuđã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanhkhởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậuchưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừdiệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tácý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tácý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưasanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừdiệt.

Vịấy như lý tác ý: Ðây là khổ; như lý tác ý: Ðây là khổtập; như lý tác ý: Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðâylà con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý nhưvậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giớicấm thủ. Này các Tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là phápdùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc".

KhiTỳ-khưu Kotthika hỏi ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất cần phảinhư lý tác ý thế nào để được giải thoát, ngài đáp:

-"Này Hiền giả Kotthika, Tỳ-khưu giữ giới cần phải nhưlý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ungnhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại,rỗng không, vô ngã.

Nămthủ uẩn đó là gì? Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn,tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiềngiả Kotthika, vị Tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tácý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt,mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗngkhông, vô ngã" (Tương Ưng 22.122).

Vềthực hành pháp và tùy pháp, ở đây được giảng rộng ra,bao gồm chánh niệm tỉnh giác, phòng hộ các căn, huân tậpba thiện hành (thân, khẩu, ý), thực hành bốn niệm xứ (thân,thọ, tâm pháp), và phát triển bảy giác chi (niệm, trạchpháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả).

Trongnhiều bài kinh (Tương Ưng Bộ, Phẩm Dự Lưu), Đức Phậtthường đề cập đến bốn đặc tính của một vị thánhDự lưu là: niềm tín thành bất động nơi Đức Phật, nơiGiáo Pháp của Ngài, nơi đoàn thể các vị Thánh Tăng và cógiới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chânnhân khen ngợi. Trong Tăng Chi 10.92, Ngài giảng:

-"Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? Ở đây, này Giachủ, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đốivới Đức Phật: Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh ÐẳngGiác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô ThượngSĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp: Phápđược Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, khôngcó thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,được người trí tự mình giác hiểu. Vị ấy thành tựutịnh tín bất động đối với chúng Tăng: Diệu hạnh làchúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử ThếTôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnhlà chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúngđệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôntrọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, làphước điền vô thượng ở đời. Vị ấy thành tựu vớinhững giới đức được các bậc Thánh ái kính, không bịphá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, khôngbị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tánthán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định."

Mặcdù đoạn kinh trên thường được xem là các tiêu chuẩn cănbản của quả Dự lưu, trong kinh điển còn có ghi các danhsách khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới hạnh được thaythế bằng tiêu chuẩn bố thí và trí tuệ:

- TươngƯng 55.32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vịThánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uếcủa xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thútừ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vậtbố thí."

- TươngƯng 55.33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vịThánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệtcác pháp, trí tuệ các bậc Thánh thể nhập các pháp, đưađến chơn chánh đoạn tận khổ đau."

Khicác danh sách liệt kê này được kết hợp lại, chúng ta cóđược bốn đức tính của vị Thánh Dự Lưu: (1) đầy đủlòng tin, (2) đầy đủ giới đức, (3) đầy đủ bố thí,và (4) đầy đủ trí tuệ.

Đócũng là bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tươnglai cho một cư sĩ Phật tử:

-"Có bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tươnglai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòngtin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trítuệ" (Tăng Chi 8.54).

Ởđây, lòng tin nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) không phải chỉđơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín mù quáng. Vị Dự Lưuthật sự tín nhiệm, tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả- nguyên lý của hành động và hậu quả - vì vị ấy đãchứng nghiệm rõ ràng khi bắt đầu nhập dòng Thánh.

*

Tronggiai đoạn tu tập kế tiếp, khi tham dục (tham đắm vào dụcgiới) và sân hận được trừ khử một cách đáng kể thìngười đó đắc quả Nhất lai, nghĩa là có thể còntái sinh làm người hoặc trong cõi trời dục giới một lầnnữa. Khi hai kiết sử tham dục và sân hận được loại bỏhoàn toàn, thì người ấy đắc quả Bất lai, nghĩa làkhông còn tái sinh vào cõi dục giới nầy nữa. Năm kiết sửđầu tiên nầy gọi là hạ phần kiết sử (orambhāgiya-samyojana),cột trói chúng sinh trong cõi dục. Tùy theo trình độ chứngđạt, bậc thánh Bất lai sẽ thác sinh về Tịnh cư thiên thuộccõi trời sắc giới (rūpa-loka), trước khi nhập Niết-bàntối hậu. Ba quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai cũng thườngđược gọi chung là quả vị của bậc thánh Hữu học.

Ngườiấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý, và tinh tấn trừkhử năm kiết sử còn lại: tham đắm vào cõi sắc, tham đắmvào cõi vô sắc, trạo cử vi tế, mạn, và si vi tế. Năm kiếtsử nầy gọi là thượng phần kiết sử (uddhambhāgiya-samyojana),cột trói chúng sinh trong cõi sắc và vô sắc. Ở đây, thamđắm vào cõi sắc và cõi vô sắc là sự tham đắm vào bốntầng thiền-na hữu sắc (rūpa-jhāna)và bốn tầng thiền-navô sắc (arūpa-jhāna). Trạo cử vi tế là trạng tháivẫn còn một vài giao động nhỏ trước trần cảnh, mạn(māna)là các ý tưởng so sánh, và si vi tế là mộtvài dấu vết vô minh ngăn che còn sót lại.

*

Ðếnlúc đó, người ấy đã phá tung tất cả mười sợi dây tróibuộc, trừ khử mười loại kiết sử ô nhiễm, lậu hoặcđã đoạn tận, tuệ giác khai mở, không còn tạo nghiệp,không còn phải tái sinh, luân hồi nữa. Nói một cách khác,như đã mô tả trong Trung Bộ Kinh, bài kinh số 1 (Kinh PhápMôn Căn Bản), đối với người ấy: "các lậu hoặc đãtận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặtgánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừhữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát". Người ấytrở thành bậc A-la-hán, bậc thánh Vô học, đắc đạoquả Niết Bàn, giải thoát rốt ráo tối hậu.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2020(Xem: 4885)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4637)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 17563)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4413)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
31/10/2020(Xem: 5568)
Hòa thượng họ Khổng (sau khi hoạt động Phật giáo Cứu quốc, do hoàn cảnh mới đổi thành họ Nguyễn) húy Hồng Hạnh, hiệu Vĩnh Đạt, thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, sinh năm Tân Hợi (1911), niên hiệu Duy Tân năm thứ 5, tại xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình làm nghề nông sùng mộ đạo Phật. Hạt giống bồ đề khơi mầm, vườn hoa Bát nhã nở hoa, ấu niên 9 tuổi, những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, ngài trở thành chú tiểu đệ tử của đại lão Thiền sư Khánh Thông, Tổ đình Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri. Hòa thượng Bổn sư cho ngài thọ giới sa di vào ngày mùng Một tháng 07 năm Tân Dậu (1921) tại Bổn tự Bửu Sơn do bổn sư của ngài đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
31/10/2020(Xem: 7560)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Chưa lúc nào bản thân chúng tôi thấm thía Lý Duyên Sinh Phật dạy như lúc này. Quả thật..''Cái này sinh thì cái kia sinh'', chân lý này vận hành trong mọi sự vật và mọi sự kiện, bởi vậy một khi Dịch Covid còn kéo dài là nạn đói xứ Ấn còn tiếp tục lê thê..
29/10/2020(Xem: 4622)
Dharamshala: Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã thông báo Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân đã được 50 quốc gia phê chuẩn là Honduras, cho phép “văn bản lịch sử” bắt đầu có hiệu lực sau 90 ngày. Khôi nguyên Nobel Hòa bình, lãnh tụ tinh thần lưu vong của Tây Tạng, là người ủng hộ suốt đời cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân, Đức Đạt Lai Lạt Ma hoan nghênh thông tin, ca ngợi hiệp ước “một bước đi đúng hướng để tìm ra những thỏa thuận sáng suốt và văn minh hơn để giải quyết xung đột”.
29/10/2020(Xem: 4785)
Cư sĩ Phan Cơ Văn (Ban Ki-moon-반기문-潘基文, hậu duệ cụ Phan Huy Chú, Việt Nam), cựu Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, đương nhiệm Chủ tịch “Hội đồng quốc gia về khí hậu và chất lượng không khí” đã đến viếng cố Cư sĩ Lee Kun Hee (Lý Kiện Hy, 이건희, 李健熙), pháp danh Trọng Đức (중덕-重德), pháp hiệu Trọng San (중산- 重山), Đại hộ pháp (대호법-大護法), đệ tử tông phái Phật giáo Won Hàn Quốc, nhà tư bản công nghiệp, doanh nhân Phật tử, tỷ phú người Hàn Quốc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị tập đoàn Samsung tại nhà Tang lễ Bệnh viện Samsung, Ilwon-dong, Gangnam-gu, Seoul lúc 3:06 chiều ngày 26 tháng 10 năm 2020. Khoảng 15 phút phúng viếng và chia buồn cùng tang môn hiếu quyến. Ngay sau khi lễ viếng và chia buồn, Chủ tịch Samsung Electronics Cư sĩ Lee In-yong đã đưa tiễn Ngài cựu Tổng Thư ký LHQ ra về. Ảnh: Jeong Ye-rin
27/10/2020(Xem: 5791)
Thấm thoát mà hôm nay ngày 11.8. Canh Tý, nhằm chủ nhật 27.9 đã thất tuần rồi. Dì dâng hương hoa cúng Mười Phương Chư Phật cũng như cơm canh để cúng cửu huyền thất tổ, hương hồn con linh thiêng về đây cùng ngồi tụng kinh Địa Tạng với dì, dì cháu mình cùng đảnh lễ xưng danh hiệu chư Phật phẩm thứ chín hầu mong đem lại lợi ích được cho tất cả những loài hữu hình hay vô hình nếu ai đó hữu duyên để lắng nghe lời Phật dạy:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]