Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09-Nụ cười bất diệt

01/02/201108:04(Xem: 6093)
09-Nụ cười bất diệt


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Nụ Cười Bất Diệt

Trongthờigian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông đượcnụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi tượng đúc Phật và nụcười của các Thiền Sư khi giã từ cuộc đời. Tại sao bàithuyết pháp đầu tiên của đức Phật tại Lộc Uyển đềcập trước nhất là khổ đế, cho đến nhiều bài thuyếtpháp sau này, đức Phật cũng thường nhắc đến nỗi khổcủa chúng sinh bằng những câu "nước mắt chúng sinh nhiềuhơn nước biển cả", mà trên gương mặt Ngài luôn nởnụ cười.

Vô minh là cộinguồn của muôn kiếp khổ đau- Con người có mặttrên cõi đời này do vô minh chủ động, nên khi ra đời đãmang sẵn chất keo đau khổ. Vô minh là gì mà đày đoạ conngười lắm thế.? Vô minh là nhận hiểu sai lầm về con ngườivà muôn vật. Về con người, thân này là cái không thể giữmà cố giữ, cái sắp bại hoại mà muốn không bại hoại,cái tạm bợ mà tưởng lâu dài, cái nhơ nhớp mà tưởng đẹpđẽ; các cảm giác là hư ảo mà tưởng chân thật, cảm giáclà vô thường mà tưởng lâu dài, cảm giác là là đau khổmà tưởng hạnh phúc; nội tâm vọng tưởng là ảo ảnh màchấp là tâm mình, chân tâm bất biến thì lơ là không biếtđến. Và muôn vật, những sắc hình hào nhoáng, những âmthinh sanh diệt, những hương vị tạm bợ mà mê say đắm đuối,khao khát thèm thuồng đuổi bắt suốt đời không biết mệtmỏi. Từ những nhận hiểu sai lầm này, con người không baogiờ toại nguyện, không bao giờ được như ý, không bao giờthấy hạnh phúc; mà luôn luôn thấy bất mãn, bất như ý,bất hạnh...là nguồn gốc khổ đau. Cái nhận biết sai lầmnày gắn chặt vào chúng ta từ đòi này sang kiếp nọ, mãimãi không rời, cho nên khổ đau do nó gây ra không biết lấyđâu làm ngằn mé, chỉ còn cách diễn tả "nước mắt chúngsanh nhiều hơn nước biển cả".

Mặc dù vô minh hiểm nguy như thế,song một phen giác ngộ chúng đều tiêu tan. Như ngôi nhà tốingàn năm chỉ còn thắp ngọn đèn sáng lên thì bóng tối tanmất. Cái mê lầm u tối tạo thành muôn ngàn sợi dây nghiệpkhổ; trói buộc lôi kéo con người lăn lộn trong vạn nẻoluân hồi, tưởng chừng như không có cách gì thoát khỏi,đâu ngờ ngọn đèn giác ngộ vừa bừng sáng lên, chúng liềnlui mất không còn tung tích. Thấy được việc này, đức Phậtkhông nở nụ cười an lành sao được.

Chúng sinh simêtranh dành sắc, tài, danh, lợi, đấm đá nhau,sát phạt nhau, lừa đảo nhau, hận thù nhau ... biến cảnhnhân gian thành bãi chiến trường. Kẻ thắng thì được hoanhô thăng thưởng, được vật chất dẫy đầy; người bạithì bị khinh miệt chê đè, bị thân tàn nghèo đói. Một bênhạnh phúc, một bên khổ đau hiện bày trước mắt mọi người.Vì thế, bất cứ ai có mặt trên trần gian đều sẵn sàngcầm kiếm xông vào trận mạc để mong dành phần thắng vềmình. Nhưng nơi chiến trường đâu phải ai cũng là kẻ thắng.Có người thắng là có kẻ bại, có hạnh phúc là có khổđau. Ðôi khi kẻ bại phải tan thân mất mạng đã đành, màngười thắng cũng thương tích đầy mình. Hạnh phúc rấtít mà khổ đau quá nhiều. Mặc dầu là thế, ở đời cóai chịu nhường bước cho ai. Nhũng chiếc xe tranh nhau qua mặtgây tại nạn, hàng ngày xảy ra nhan nhản trước mắt, màcác chú tài xế ít khi chịu nhường tránh nhau để mình vàngười được an toàn. Tranh đấu đã trở thành qui luật củacon người. Song kẻ thắng người bại kết cuộc sẽ thànhcái gì ? - Một nấm mồ hay một nhúm tro tàn !

Ðời người là diễn viên đangdiễn xuất những vở bi hài kịch trên sân khấu của kịchtrường. Dù đóng vai người tài danh lỗi lạc hay đóng vaikẻ ăn mày cùng khổ ở xó chợ đầu đường, khi hạ mànkết thúc đều không. Trong lúc giả trang tạm thời ấy, mọisự được mất thành bại ... đều là trò chơi. Người diễnviên thông minh đóng kịch, dù bi kịch hay hài kịch, khi sânkhấu buông màn liền nở nụ cười, đây là trò đùa trênsân khấu, không có một chút hối tiếc hay lo buồn. Ðúc Phậtđã giác ngộ viên mãn, thấy rõ cuộc đời ảo hóa, khi từgiã cuộc đời tự nhiên ngài hé môi cười nhẹ.

Những thứsuy tư nghĩ tưởng trong nội tâm, mỗi con ngườichúng ta đều thừa nhận là tâm của mình, hoặc nhận làmình. Tôi suy tư thế này, tôi nghĩ tưởng thế kia, hoặc tôinghĩ tôi tưởng. Do thừa nhận chúng là mình, nên chúng raoai tác quái tạo đủ thứ nghiệp, cột trói lôi kéo mìnhlăn tròn trong lục đạo không có ngày thoát khỏi. Hằng ngàycác thứ ấy lăng xăng lộn xộn bủa vây che đậy trong nộitâm chúng ta không một chút giây an ổn. Có khi chúng nó ồnào náo loạn khiến đầu óc ta nóng rực bất an, cố van xinchúng cho cho ta được vài phút an lành, nhưng chúng nó nàocó chịu tha, cứ tha hồ quậy, buộc lòng ta phải dùng thuốcan thần để chống cự. Thậm chí những nhà tu hành cũng bựcbội sự náo loạn của chúng, phải chạy tìm "pháp an tâm".Có vị sợ sự trói buộc vô hạn định của chúng, phảiđi cầu xin "pháp giải thoát". Gặp bậc thầy cỡ lớn, nhàtu hành liền đem ra hỏi "pháp an tâm". Ông thầy nghiêmnghị bảo "đem tâm ra ta an cho". Nhà tu hành sửng sốtphản quang soi lại thì bọn giặc ồn ào đã biến đâu mất,đành thưa "con tìm tâm không được". Bậc thầy nhếchmép cười bảo "ta đã an tâm cho ngươi rồi. Nhà tu hànhbỗng dưng thấy bọn giặc ấy là một đám khói mây. Nhàtu hành khác thao thức lo sợ sự trói buộc của đám phiềnnão này đi cầu thầy dạy "pháp giải thoát". Ông thầycỡ lớn chỉ hỏi "ai trói buộc ông?". Nhà tu hành tìmlại không thấy có gì trói buộc, liền thưa "không có aitrói buộc". Ông thầy cả cười bảo "cầu giải thoátlàm gì ?"Nhà tu hành bỗng dưng thấy trăm dây ngàn mốitrước kia nhất thời đã biến đâu mất.

Khi thấy tột bản chất ảo hóacủa các thứ tâm lăng xăng lộn xộn này, đức Phật chỉcó cười với chúng mà thôi! Nếu ai còn lầm nhận chúng làmình thì bị chúng ra oai tác quái, trái lại người biết rõbản chất hư ảo của chúng thì không bị chúng lừa gạtvà khả năng lôi kéo của chúng cũng bị hạn chế. Thấy rõcác thứ tâm hư ảo rồi, đức Phật còn nhận ra tâm thểchân thật nơi mỗi con người là thênh thang trùm khắp, chưabao giờ bị sinh diệt vô thường. Xả bỏ thân khổ đau nhớpnhúa, tạm bợ, thể nhập pháp thân thanh tịnh bất sanh bấtdiệt (niết bàn), nhẹ nhàng an lạc biết mấy, thì đức Phậtlàm sao chẳng hé nở nụ cười an lành thanh thản. Không nhữngPhật mà các Thiền sư đệ tử Phật khi từ giã cuộc đờicũng cười. Tôn giả Pháp Loa khi sắp tịch diệt để kệ:

Dịch âm:
Vạn duyên tài đoạn nhất thânnhàn

Tứ thập dư niên mộng huyễngian

Trân trọng chư nhân hưu tá vấn

Na biên phong huyệt cách man khoan
Dịch nghĩa:
Muôn duyên cắt đứt một thânnhàn

Hơn bốn mươi năm giấc mộngtràng

Nhắn bảo mọi người thôi chớhỏi

Bên kia trăng gió rộng thênhthang
Ðeo mang thân này là đeo mang gông cùm,bệnh tật, bại hoại, khổ đau, buông xả được nó thì nhẹnhàng thảnh thơi an lạc. Xả bỏ thân này đâu phải là hết,mà còn bầu trời mênh mông có trăng trong gió mát, còn gìthích thú bằng, nên Thiền sư cười.








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2020(Xem: 7055)
Bài viết, kỷ niệm 50 ngày thành lập Cộng đồng đa dạng văn hóa tín ngưỡng gồm 10 quốc gia ASEAN!
27/05/2020(Xem: 5462)
Năm nay đánh dấu kỷ niệm 40 năm, kể từ khi Khánh thành Bảo tàng Khảo cổ Thung lũng Bujang (the Bujang Valley Archaeological Museum), tọa lạc tại Merbok, Kedah, một bang phía tây bắc của Bán đảo Malaysia.
27/05/2020(Xem: 8231)
Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”. Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita, người Trung hoa dịch nghĩa là “bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”. Đây là sáu món tu tập có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình từ bờ bên này, bờ vô minh của thế gian, vượt sang bờ bên kia, bờ giác ngộ của chư Phật. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước gồm có: “bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục”. Tu tuệ là “thiền định và trí tuệ”.
26/05/2020(Xem: 7494)
Nhà lãnh đạo tinh thần nhân dân Tây Tạng, cùng hòa điệu với các nhà khoa học nổi tiếng trong một bộ phim tài liệu với chủ đề tuyệt diệu đầy quyến rũ.
26/05/2020(Xem: 8488)
Nước ta ở vào địa thế phía Đông là biển cả bao la, phía Tây là dãy Trường Sơn trùng điệp, còn phương Bắc thì tiếp giáp với Trung Hoa, một quốc gia rộng lớn, hùng mạnh đã biết bao phen xâm chiếm nước ta, vì vậy dân tộc ta không còn sự chọn lựa nào khác hơn là phải nỗ lực tiến về Nam để tồn tại và phát triển. Trong các đợt mang gươm đi mở cõi, tộc Phạm có nhiều vị tướng tài giỏi, những nhà cai trị lỗi lạc đã giúp các vương triều hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại này.
26/05/2020(Xem: 10138)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
25/05/2020(Xem: 12946)
Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy (sinh năm 1947), vị học giả người Mỹ, Giáo sư, tác gia, Giáo thọ Thiền Phật giáo thuộc Tam Bảo giáo (Sanbō Kyōdan, 三寶教), truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Trưởng lão Cư sĩ David Robert chào đời tại Panama, khu vực kênh đào, (Đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Phương Nam của quân đội Mỹ). Thân phụ của ông trong đơn vị Hải Quân Hoa Kỳ nên gia đình được đi du lịch rất nhiều. Thuở nhỏ, ông học trường Carleton College, Minnesota, một tiểu bang vùng Trung Tây của Hoa Kỳ, và sau đó du học khoa triết học tại trường King's College London (informally King's or KCL), Vương quốc Anh.
23/05/2020(Xem: 7437)
Con người ta, kể cả Đức Phật, Bồ Tát, La Hán hay thánh tăng khi còn sống thì vẫn phải đi đây đi đó, tiếp xúc, gặp gỡ, giao tiếp với người này người kia trừ khi sống ẩn tu trong hang động, núi rừng. Trong khi tiếp xúc, gặp gỡ như thế có thể “đối cảnh sanh tâm”. Thí dụ, khi bước vào một nhà giàu, có thể thể nảy sinh lòng ham muốn. Khi thấy người ta đeo nữ trang quý giá có thể sanh tâm thèm muốn hay đua đòi. Khi gặp cô gái, anh chàng đẹp trai có thể sanh tâm yêu mến. Từ yêu mến có thể sanh tâm chiếm đoạt.
22/05/2020(Xem: 9542)
Theo báo The Australian, vào ngày thứ hai 18/5/2020 trong Hội Nghị của Hội Đồng Y tế Thế giới (WHA), Úc cùng 136 nước khác trong số 194 các nước thành viên cùng đệ trình một Bản Dự Thảo Nghị Quyết mở cuộc điều tra. Bản Dự Thảo đã không bị bất cứ quốc gia nào phủ quyết, một việc chưa từng xảy ra trong bang giao quốc tế, nó nói lên sự chính đáng để có một cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra đại dịch, cách giải quyết của từng quốc gia và rút ra bài học tránh thảm họa cho nhân loại. So với ý tưởng ban đầu của Thủ Tướng Scott Morrision, Bản Dự Thảo có đôi chỗ thay đổi. Úc đề nghị tiến hành một cuộc điều tra hoàn toàn độc lập với Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), còn Liên Minh Châu Âu đề nghị cuộc điều tra sẽ do WHO chịu trách nhiệm, nhưng việc đầu tiên là phải điều tra cách giải quyết đại dịch của chính cơ quan WHO. Mặc dù Chủ Tịch Trung cộng Tập Cận Bình đồng ý tiến hành cuộc điều tra, nhưng Đại sứ Trung cộng tại Úc, ông Thành Cảnh Nghiệp tuyên bố cuộc điều tra “hoàn toàn khác” với
21/05/2020(Xem: 9129)
Sáng thứ sáu, ngày 10 tháng 4 năm 2020 một phi hành đoàn gồm các phi hành gia của Hoa Kỳ và Nga từ trạm không gian quốc tế ISS đã hạ cánh xuống bãi đáp ở Kazakhstan, sau 200 ngày thi hành phi vụ. Thông thường, nhiệm vụ của họ là thám hiểm những hành tinh xa xôi, tìm hiểu những gì mà người dưới trái đất chưa được biết, chưa được thấy. Nhưng trở lại trái đất lần này, họ sửng sốt, ngạc nhiên vì dường như trái đất không còn giống như khi họ ra đi, 200 ngày trước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]