Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06-Tất cả pháp không cố định

01/02/201108:04(Xem: 6093)
06-Tất cả pháp không cố định


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Tất Cả Pháp KhôngCố Ðịnh

Mọiconngười chúng ta đều mắc phải bệnh cố chấp, muốn cáigì mình yêu thích phải còn như vậy mãi. Mỗi khi những cáiđó đổi thay, mình sinh ra đau khổ chán chường, trách tạisao cái đó không giống ngày xưa. Bệnh cố chấp ấy khiếnchúng ta sống trong hiện tại mà tâm hồn vẫn lùi về quákhứ. Quá khứ đã qua, đã mất, mà chúng ta cứ sống vớicái mất, chính chúng ta đang sống mà đã chết đi rồi.

Trên đời, muôn vật luôn thay đổinhư dòng nước chảy, chúng ta muốn nắm đứng chúng lạichỉ là việc toi công. Sự biến chuyển đã thành qui luậtcủa thiên nhiên, không ai có quyền làm sai qui luật ấy. Nếuchúng ta muốn khác đi với qui luật này, là chúng ta tự rướclấy sự đau khổ vào mình. Bởi thời gian cứ chạy mãi thìmuôn vật cũng theo đó đổi thay. Chúng ta mới mua chiếc xeHonda thấy mới toanh, chạy mấy tháng sau đã phai màu, có vàibộ phận mòn lỏng. Nhớ lại lúc mới mua xe đem về, chúngta cảm thấy buồn chiếc xe cũ rồi. Một cái nhà mới cất,chúng ta thấy hài lòng, nhưng ở được vài ba năm đã thấytrên tường có mấy lằn rạn nứt, những màu nước vôi đãtrắng bạc, các cánh cửa đã lung lay. Chúng ta cảm thấy buồn,cái nhà mới cất mấy năm mà đã cũ. Mọi vật chúng ta luônluôn biến đổi, biến đổi theo thời gian và biến đổi donhân duyên hội tụ đủ thiếu. Ðóa hoa sen trong hồ, xây ởtrước sân, vừa nở tròn thơm nhẹ, nhìn nó chúng ta cảmthấy vui lâng lâng. Vài hôm sau từng cánh hoa rơi lả tả,chúng ta trông thấy lòng buồn rười rượi. Cây cam trướcnhà sung sức cành lá sum sê, trái đeo cằn nhánh, chúng ta nhìnnó với nụ cười thích thú. Mây năm sau, cây cam già lụilá rụng cành khô, chúng ta nhìn nó với vẻ buồn thất vọng.Chúng ta muốn giữ mãi cái gì làm đẹp mắt chúng ta. Chúngta cố bám chặt cái gì đem lại quyền lợi cho chúng ta vànhững cái gì có tính thân tình liên hệ với chúng ta, khimất mát nó chúng ta mới thật buồn khổ. Ðây là lòng thamcố giữ cái sở hữu của mình. Nếu chiếc xe của ngườikhác hư, cái nhà người khác cũ, chúng ta có buồn không? Quảlà do cái chấp ngã sở của chúng ta, nên khi vạn vật vôthường sinh diệt, chúng ta liền bị lôi kéo theo. Cố chấplà si mê, không thể thấy được sự thật của cuộc đời.

Con người chúng ta cũng thế, vềthể xác thì tế bào sinh diệt, diệt sinh liên tục không dừng.Hết thời tăng trưởng tới thời suy tàn, như dòng nướcthủy triều hết lên lại xuống. Thế mà, chúng ta nghe nóithân này già là cảm thấy buồn. Có những người thời traitrẻ khuân vác gánh gồng, làm nhiều mà không thấy mệt. Ðếnkhi tuổi sắp lục tuần, ra làm chút ít đã thất thở hàohển, tự trách tại sao bây giờ yếu lắm vậy. Họ đâu biếtthân họ đã đến lúc tàn cỗi rồi. Người ta cứ tưởngmình như thuở nào, chớ không biết mình đang xê dịch lầnvề cõi chết. Bởi vậy nghe nói cái chết đâm ra hoảng sợ.Ðó là chúng ta không biết thể xác này luôn luôn biến đổivô thường. Sợ chết, sợ mất thân này là do si mê chấpngã mà ra. Ðến phần tinh thần cũng vậy, trong ấy luôn luônbiến đổi diệt sinh. Tâm niệm này sinh tâm niệm kia diệt,cứ mãi đổi thay không cùng. Có ai đó nghĩ rằng tâm niệmmình trước sau như một, đây là một nhận định sai lầm.Bởi họ cho tâm niệm mình trước sau như một, nên thấy tâmai trước trắng sau đen, họ đâm ra bực bội căm hờn. Họquên rằng mỗi khi hoàn cảnh đổi thay, hoặc hội nhập vàoxã hội xa lạ, tâm con người liền chuyển đổi theo thờitheo cảnh. Chúng ta đừng ngây thơ nghĩ rằng kẻ kia trướcthế nào, ngày nay dù hoàn cảnh khác đi tâm họ vẫn như xưa.Ðó là nhận định sai lầm khiến ta ôm hận suốt đời. Nỗiđau khổ của con người là sợ già sợ chết, sợ ngườithân đổi dạ thay lòng. Song cái sợ ấy làm sao tránh khỏi.Chỉ cần sáng suốt nhận rõ rằng thân này là tướng vôthường hoại diệt, tâm này là một dòng biến chuyển vôchừng. Ðược vậy, thân ta có già có chết cũng không buồn,lòng người có đổi trắng thay đen cũng chẳng lạ. Thế làchúng ta sống cuộc đời an ổ vô cùng.

Ðây tôi thuật lại chuyện "Cốnhân về thăm cố hương" cho quí vị nghe: Tôi rời khỏi quêhương năm 1947, đến năm 1980 tôi trở về thăm. Quê hươngtôi là nơi tôi đã sống hơn hai mươi năm thật là gắn bóvà thân thiết biết bao. Từ chùa Phước Hậu thuê thuyềnmáy đưa thầy trò chúng tôi về Rạch Tra. Ðến vàm RạchTra rồi! Chú phụ lái ngồi trước nói. Tôi vội vàng chunra khỏi mui, ngồi trước mũi thuyền. Ðây là giòng sông thânthuộc chứa chan biết bao kỷ niệm ngày xưa. Tôi tin rằngkhông thể nào quên được những ngôi nhà của bà con thânquyến nằm bên cạnh bờ sông. Nhưng than ôi! nhìn hai bên bờsông tôi thấy lạ hết, những cảnh ngày xưa tôi biết,ngàynay đổi khác. Nào là nhà bác Chín Chiếu, nhà ông Cả Lập...,tôi không tìm ra ở chỗ nào. Cho đến bến sông nhà tôi ngàyxưa, một chiếc cầu thang bắc xuống sông, bên phải bụitầm vông, bên trái cây mít, kế một cái xẻo đi vô trong,nơi để ghe xuồng khi chúng tôi đi đâu về. Những hình ảnhnày tôi tìm mãi, tìm mãi mà không thấy. Thuyền đi khá xa,tôi đã biết ra khỏi nhà xưa của chúng tôi rồi. Bảo dừngthuyền lại, tôi tìm lên cầu lên bờ hỏi thăm, mới biếtlà đã đi quá hơn nửa cây số. Thuyền quay trở lại, ghéngay bến theo người hàng xóm chỉ. Tôi theo cây cầu dừa bắcduỗi xuống sông trơn trợt, chống cây làm gượng lên đếnbờ. Những đứa bé lớn có nhỏ có ở các nhà xung quanh thấythuyền đậu, chúng chạy úa đến xem. Tôi nhớ nhà tôi ngàyxưa ở giữa, bên cạnh xẻo là nhà chú Tám, bên trái nhìnra đường là nhà anh Hai Nhất, kế đó là nhà chú Bảy ...mà nay nhà cất loạn, không còn một chút dấu tích gì củangày xưa. Cho đến những người thân ngày xưa đâu mất cả,tôi không thấy ai, chỉ thấy đám người trẻ xa lạ khôngbiết tôi, cũng như tôi không biết họ. Mấy mươi phút sau,có mấy ông già, bà già đến, nhìn ra tôi mới biết đâylà anh Bảy, Nhung con cô Năm tôi, kia là cô Tư con chú Bảytôi, rồi thiếm Sáu Cừ dâu chú Tám tôi ... Nhìn ra tôi, mỗingười nghẹn ngào vừa mừng vừa khóc. Tôi cũng cảm thấynao nao trong lòng. Các vị ấy dẫn tôi đi thăm nền nhà cũcủa tôi, ở đây chỉ còn là một khoảnh đất trống, cuốcthành những luống khoai, trồng bắp. Tôi chợt nhớ đến haicâu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: "Lối xưa xe ngựa hồn thuthảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương". Những hình ảnhxưa sống lại trong ký ức tôi. Kế đến đi thăm những ngôimộ của ông nội, bà nội tôi, mà ngày xưa mỗi năm ông thântôi và tôi đều tảo mộ vào dịp hai mươi tháng chạp. Sắptừ giã trở về chùa Phước Hậu, mọi người vây quanh tôinhắc chuyện năm xưa, khi kia mọi người đều còn trẻ, mànay hầu hết đã từ biệt cõi đời, chỉ còn sót lại mộtít người gặp nhau mà không nhận ra nhau, khiến lòng tôi selại. Từ giã mọi người, chúng tôi trở về chùa PhướcHậu. Lòng tôi cứ ôn đi ôn lại, mình là "cố nhân về thămcố hương" hay là "người mới về thăm cảnh mới". Cảnhđã hoàn toàn mới, người cũng mới, bản thân tôi cũng mớiluôn. Khi xưa ra đi, tôi là một thanh niên trên hai mươi tuổi,ngày nay trở về tôi là ông già đầu bạc hoa râm. Khi xưatôi là người cư sĩ, ngày nay tôi là kẻ xuất gia. Từ thểxác lẫn tinh thần đều đổi mới. Nếu tôi cứ buồn tráchcảnh thay đổi, người thay đổi, sao tôi không tự trách tôicũng đã thay đổi. Ðúng như hai câu thơ của Thiền sư MãnGiác: "Trước mắt việc đi mãi, trên đầu già đến rồi"(Sự trục nhãn tiền quá, lão tùng đầu thượng lai). Chúngta mới thấm thía lẽ "Tất cả đều thay đổi, không có gìlà cố định". Cố bám lấy hình ảnh xưa cũ, chúng ta sẽđau buồn vì nó không còn như mình nhớ. Mọi vật là mộtdòng biến thiên từng phút giây, chúng ta luôn luôn sống vớicái mới. Nhận thức được như vậy, chúng ta sẽ cười khidòng đời luân lưu biến chuyển.

Bản thân các pháp là chuyển độnglà đổi dời. Thấy rõ sự chuyển động đó là thấy đượcsự thật. Nghĩ là các pháp là nguyên vẹn không đổi dời,là cái nghĩ sai lầm. Trên cái nghĩ sai lầm này, lại sinh tâmbuồn phiền than trách là cố chấp. Cố chấp là nguồn gốckhổ đau. Cho nên người học Phật phải thấy các pháp đúngsự thật của nó. Chính cái thấy đúng sự thật này là khoahọc. Vì khoa học nhận thấy sự vật là một dòng sinh diệtbất tận. Với con mắt khoa học hiện đại không thấy cómột sự vật nào mà không sinh diệt và đứng yên một chỗ.Từ thân người cho đến cây cỏ, từng tế bào sinh diệttrong ấy. Vì vậy người vật hết thời kỳ tăng trưởng,đến thời kỳ lão hóa và bại hoại. Có cái gì bền lâunguyên vẹn mà chúng ta cố chấp. Nếu cố chấp là si mê khônggiác ngộ, là sai lầm không đúng khoa học.

Sở dĩ các pháp biến chuyển khôngcố định, vì bản chất nó là vô thường vô ngã. Chúng tađịnh nghĩa sống là gì? Là động. Còn luân lưu biến độnglà còn sống. Dừng sự biến động là chết. Bản thân talà động, muôn vật là động. Ðã là động thì biến chuyểnđổi dời, đấy là vô thường. Sống trong biển biến độngvô thường của vạn vật mà chúng ta muốn nó được thường,thực là một điều không bao giờ có. Hành tinh chúng ta đangở, nó quay tròn mãi không dừng, nếu dừng lại là nổ tung.Chính thân chúng ta, tim đập mãi không dừng, một khi nó dừnglà chúng ta chết. Con người và muôn vật đều bám vào quảđất mà sống, bản thân quả đất lại quay cuồng, thì conngười và muôn vật làm sao an định được. Cho nên sự tồntại của quả đất, cũng như sự tồn tại của muôn vậtlà động, đấy là lý vô thường Phật đã dạy. Thấu triệtlý vô thường này, chúng ta sẽ cười trước mọi biến đổi,nhất là sự biến đổi của thân ta lúc bại hoại.

Con người và muôn vật sống trênquả đất, kể cả quả đất đều do nhiều nguyên tố họplại thành hình. Không có vật nào đơn thuần từ một nhântố mà thành. Ðã do nhiều nhân tố chung hợp thành sự vật,những nhân tố ấy nhà Phật gọi là nhân duyên. Nếu phântích một con người hay sự vật, chúng ta thấy nhiều lớpnhân duyên tụ họp thành. Nơi con người thì có mấy tỷ tếbào chung họp, mỗi loại đều có chức năng riêng. Ở mỗivật cũng do nhiều tế bào kết hợp, hay những hạt nguyêntử đang quay cuồng xoắn chặt vào nhau. Ðã nhiều loại nhiềuthứ thì loại nào thứ nào là chủ? Hoặc do nhiều thứ họplại thành, tức không có thực thể. Không có chủ, không thựcthể, Phật gọi là vô ngã. Từ vô ngã là chỉ cho mọi vậtdo nhân duyên hợp không có chủ thể, nên nói "chư pháp vôngã". Bởi vô ngã nên chúng ta không chấp mình thật, vậtthật. Không chấp mình là không chấp ngã, không chấp vậtlà không chấp ngã sở. Không chấp ngã và ngã sở thì còncái gì để chúng ta tham cầu. Nếu không tham cầu thì còngì lo sợ, còn gì bực tức. Thế là do thấy được lẽ thậtnơi con người và sự vật, chúng ta dứt được si mê. Do hếtsi mê, chúng ta dừng được tâm tham lam và nóng giận, ngangđây tam độc không còn. Ðó là kết quả tốt đẹp cuả ngườitu Phật.

Tóm lại, do biết rõ các pháp khôngcố định tức là vô thường, vô ngã, nên chúng ta buông xảtất cả cố chấp si mê. Chính đây là "chánh kiến"trong Bát Chánh Ðạo. Mọi cố chấp đều y cứ nơi con ngườivà sự vật. Thấy rõ người vật đều tạm bợ biến thiênkhông thật, thì mọi cố chấp đâu còn. Không còn cố chấpthì tất cả khổ đau đều tan biến. Sở dĩ chúng ta nhiềubuồn khổ là sợ thân này bệnh, chết. Biết bệnh chết làlẽ thường, con đường mà ai cũng phải đến, còn gì sợhãi việc bệnh và chết. Chúng ta sợ cái bất thường chỉđến riêng mình, nên cố gắng né tránh. Nếu là việc chungcủa tất cả, chúng ta có sợ cũng chỉ vô ích thôi. Cho nênTuệ Trung Thượng Sĩ khi sắp tịch, nằm trên cái giườngtại Dưỡng Chân Trang nhắm mắt tịch. Các bà thê thiếp khócrống lên, Ngài mở mắt quở: "Sanh tử là lẽ thường, tạisao làm náo động chân tánh ta". Rồi ngài nhắm mắt an nhiênmà tịch. Cho đến mọi vật sở hữu của ta cũng thế, nólà vật vô thường bại hoại, chúng ta muốn nó còn mãi saođược. Chi bằng thấy chúng là tướng giả dối tan hợp vôthường, khi chúng còn thì chúng ta dùng, khi chúng mất thìchúng ta cười, vì lẽ thường là như thế. Kinh Kim Cang Phậtdạy: "Phàm cái gì có tướng đều là hư dối"(Phàmsở hữu tướng giai thị hư vọng). Lối nhìn này là trọngtâm thoát khổ của chúng sanh. Chúng ta sợ khổ mà không chịumở con mắt trí tuệ thấy được lẽ thật nầy thì muônđời cũng không hết khổ.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4536)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7355)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4766)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5313)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10287)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9035)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6110)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8799)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4982)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]