Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01-Tu là cầu bình an hay sửa đổi xấu thành tốt

01/02/201108:04(Xem: 6202)
01-Tu là cầu bình an hay sửa đổi xấu thành tốt


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Tu Là Cầu Bình AnHay Sửa Ðổi Xấu Thành Tốt

TrongPhậtTử chúng ta ngày nay đa số không hiểu rõ chữ tu, nênứng dụng sai lầm một cách đáng thương. Khi đến chùa quiy, họ thầm nghĩ từ đây về sau được Phật hộ độ chomình khoẻ mạnh, gia đình mình an ổn, mọi mong cầu đượcnhư ý, khi chết được Phật rước về cõi Phật... Chớ họkhông hiểu rằng, kể từ ngày qui y Tam Bảo là tự mình quyếttâm chừa bỏ những thói hư tật xấu, mình quyết thắng mọitâm niệm, hành động đê hèn ác độc của mình tạo dựngđầy đủ phước lành để chết được sanh về cõi Phật.Họ đinh ninh trong lòng TU là nương tựa Tam Bảo, là van xinvới Phật, là thỏa mãn mọi mong cầu, là an lành suốt cuộcđời..., nên trở thành yếu hèn ỷ lại, mất hết ý nghĩachữ TU.

Bởi bản chất của con người làyếu hèn, sợ hãi, tham lam, nên bước vào đường tu, họ thíchỷ lại, van xin và mong cầu. Do đó làm biến thái tinh thầntu hành của người Phật Tử.

YếuHèn- Phát xuất từ tư tưởng yếu hèn, nênkhi qui y Tam Bảo Phật tử này chỉ một bề trông cậy gởigấm đời sống của mình và gia đình mình cho Phật, mọiviệc đều Phật độ hộ cho, khi sống được bình an, lúcchết được Phật rước về cõi Phật. Với tâm niệm này,Phật tử cứ tưởng tu là thường đi chùa lễ Phật, thườngcúng dường, thường cầu nguyện là tròn bổn phận ngườitu. Những người này cung kính Phật như một vị thần hộmạng, tưởng như Phật đủ quyền năng bảo hộ cho bản thânvà gia đình họ suốt đời. Vì thế, khi bản thân hay gia đìnhxảy ra tai ách gì, họ tha thiết chí thành cầu Phật gia hộcho tai qua nạn khỏi. Nếu cầu nguyện Phật không được kếtquả, nghe ở đâu có cậu đồng bà bóng giỏi, hoặc ông thầnnàolinh thiêng cầu gì cũng được như nguyện, họ liền mang hươngđèn đến đó cầu xin. Bởi đến Phật bằng tâm ỷ lại,nên khi trông cậy không được toại nguyện thì họ bướcsang nơi khác một cách dễ dàng.

SợHãi- Khi gặp tai nạn, người ta không biếtnơi nào ẩn náu cho được an ổn, nghe ai giới thiệu qui yvới Phật sẽ được bình an, họ liền đến xin qui y Tam Bảo.Họ cứ nghĩ qui y Phật sẽ được Phật che chở, cứu độcho qua hết tai nạn. Vì thế, họ chỉ biết tu là van xin, cầukhẩn, chí thành khấn vái là tu. Mỗi đêm họ thắp hươnglễ Phật, cầu nguyện Phật gia hộ cho họ được mọi thứan bình. Trong gia đình khi có người bệnh hoặc xảy ra tainạn, họ thắp hương quỳ trước bàn Phật tha thiết van xinPhật cứu bệnh giải ách. Nếu van xin được kết quả tốt,họ tăng trưởng lòng tin Tam Bảo. Bằng trái lại, họ mấtlòng tin Phật, vì Phật không linh ứng như sở cầu. Ðượcnghe nơi nào linh thiêng xin gì được mấy, họ liền từ giãđạo Phật để sang nơi đấy cầu xin. Do họ đến với Phậtbằng tâm niệm sợ hãi, nên đời tu của họ chỉ cầu đượcbình an. Nếu không được bình an, họ sẽ chạy tìm nơi khácđể ẩn nấp.

ThamLam- Do lòng tham sâu đậm, nên khi quy y Phậthọ vẫn một bề mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Ðến chùakhông phải để học đạo tu hành, mà để cầu xin. Chỉ cầncúng Phật một bó nhang, một dĩa quả, họ lại xin Phật đếntrăm ngàn thứ. Nào là xin Phật cho gia đình bình an, xin chocon cái thi đậu, xin cho làm ăn phát tài, xin cho tai qua nạnkhỏi, xin cho thân nhân qúa cố được siêu sinh Tịnh độv.v... và v.v... Họ chi ra cúng Phật quá ít, mà họ lại xinquá nhiều. Nếu xin được như ý thì họ tinh tấn đi chùa,còn xin không được thì họ tìm chỗ nào linh thiêng hơn đểđến cầu xin cho thỏa mãn.

Bởi những người Phật tử nhưthế đến với chùa, nên trong chùa mới có xin xâm bói quẻ,coi sao cúng hạn, coi ngày lành ngày dữ để thỏa mãn đòihỏi của họ. Mặc dù gần đây Giáo Hội Phật Giáo ViệtNam kêu gọi dẹp bỏ mê tín dị đoan, song thói quen của cácPhật tử này vẫn chưa bỏ được. Nguyên nhân Phật Giáosuy đồi phần lớn do những vị này mà ra. Là Phật tử màhọ không tin nhân quả, không hiểu Phật là gì, không biếttu thế nào, làm sao không tạo thành những điều kiện u tốicho Phật Giáo? Ðây là nhũng tệ nạn do các Phật tử quanniệm tu Phật để "Cầu được bình an."

Nếu người hiểu rõ "Tu là sửađổi xấu xa thành hay tốt"thì không có quan niệm nhưtrên. Mục đích của họ đến qui y Tam Bảo cốt nương chánhpháp để tu hành trừ sạch bệnh tham sân si phiền não củamình. Phật thường dạy, Ngài "theo bệnh cho thuốc để trừbệnh khổ cho chúng sanh". Nơi nột tâm chúng ta có bệnh gìthì Phật có thứ thuốc ấy để trị lành bệnh. Cho nên nói:"Chúngsanh có vô lượng phiền não, Phật có vô lượng pháp môn".Vì thế, tu là dùng Phật pháp chuyển hóa tâm niệm sai lầm,xấu xa, tội ác của chúng ta. Biết vậy thì tu là phải họchỏi giáo pháp và ứng dụng giáo pháp để trị lành nhữngtâm bệnh của mình. Học hỏi giáo pháp là mở sáng con mắttrí tuệ, là đi dần trên con đường giác ngộ, tức là tutheo đạo Phật. Vì Phật là con người giác ngộ, đạo Phậtlà con đường tiến đến giác ngộ. Mọi khổ đau của chúngsinh do si mê tạo nên, muốn giải thoát khổ đau là phải giácngộ. Tuy nhiên giác ngộ mức độ cao thấp khác nhau, tùy đómà con người được bớt khổ hay hết khổ. Học hỏi giáopháp là học Phật, ứng dụng giáo pháp để tu hành là tuPhật. Với tinh thần tu học này, chúng ta không tìm đâu thấycó ỷ lại, van xin, cầu cúng; mà thấy mỗi người trang bịsẵn ngọn đuốc trí tuệ cuả mình để mồi với ngọn đuốcchánh pháp của Phật. Những người này không có yếu hèn,sợ hãi, tham lam; mà lòng cương quyết, can đảm, kiên trìtự nỗ lực tu hành cho đến ngày giải thoát. Tham sân si làmục tiêu họ phải chiến đấu đến bao giờ tiêu diệt hếtmới thôi. Bởi vậy một bước tiến tu là một niềm an lạc,càng tu khổ đau càng tan rã, như tuyết giá tan rã khi ánh mặttrời lên, có duyên cớ nào phải lùi bước đi theo đườngtà.

Ðược nhiều người tin Phật, chưahẳn Phật Giáo đã thịnh. Nếu tin theo lối ỷ lại, van xin,cầu cúng, dầu có bao nhiêu triệu người, Phật Giáo vẫnbị chìm trong u tối. Vì mê tín thì không giác, không giácthì có dính dáng gì với dạo Phật? Chúng ta thực tâm tu theoPhật thì cố mở con mắt trí tuệ, nhận chân Chúng ta thựctâm tu theo đạo Phật thì cố mở sáng con mắt con mắt trítuệ, nhận chân những sự thật qua lời dạy của đức Phật.Như Phật dạy "Các pháp là vô thường", chúng ta phảichiêm nghiệm lý này cho tường tận, thấu suốt tường tậnchúng ta mới nếm được pháp vị vô thườngcủa Phậtban cho. Ðạo lý "nhân quả"là nền tảng của PhậtGiáo, nếu chúng ta không suy tư cho đến thấu đáo thì lòngchánh tín khó phát sanh. Phật dạy "tin nhân quả là chánhtín", nếu chúng ta không chịu khó rà đi xoát lại kỹcàng thì làm sao đủ lòng tin nhân quả. Bởi không tin nhânquả, chúng ta dễ sanh yếu hèn, sợ hãi, van xin rơi vào đườngmê tín. Lý "nhân duyên"là chân lý của muôn pháp, nếukhông nghiền ngẫm thật chín chắn, thật nhuần nhuyễn, chúngta không thể hiểu nổi chỗ thâm áo của nó. Ðã không hiểulý nhân duyên, chúng ta làm sao thấy được chỗ cao siêucủa Phật Giáo mà sinh lòng tin kính.

Muốn hưởng được pháp vị mộtcách thấm thía nồng nàn, người Phật tử phải tận lựcsuy tư nghiền ngẫm chánh pháp thật tường tận tinh vi. Nhưmuốn thưởng thức hương vị của thúc ăn thật đầy đủ,người ta phải nhai thật nhuyễn những thức ăn ấy. Ðồngthời Phật tử phải ứng dụng triệt để chánh pháp trongcuộc sống hàng ngày. Mọi người ai cũng thừa nhận nơi nộttâm của mình đã sẵn có tính lương thiện và tính tội ác.Tội ác là nhân khổ đau cho mình và cho người, đời nàyvà đời sau, nó làm cho con người trở thành hèn hạ xấuxa. Lương thiện là nhân an vui cho mình cho người, đời nàyvà nhiều đời khác, nó gầy dựng cho con người trở thànhbậc Hiền, Thánh. Nếu muốn hết khổ được vui, chúng taphải dẹp bỏ tính tội ác, nuôi dưỡng tính lương thiện,chính đây là tu. Tu là điều kiện thiết của mọi người,không riêng ai và giới nào, nếu là người muốn hết khổđược vui và cố vươn lên bậc Hiền, Thánh.

Ước mong các Phật tử tự kiểmđiểm lại xem, mình thuộc hạng nào trong hai hạng trên. Nếulà hạng đến với Phật "để cầu bình an" thì nên chuyểnhướng can đảm vươn lên để thành Phật tử chân chánh khôngthối chuyển trên đường đạo. Nếu là hạng đến với Phậtđể "sửa đổi xấu thành tốt" thì cố gắng hơn nữa đểmọi xấu xa đều dứt sạch, mọi khổ đau đều tan biến,tự tại tiến thẳng trên đường giác ngộ. Toàn thể Phậttử đều là người chánh tín, biết ưng dụng chánh pháp chuyểnhóa ba nghiệp của mình trở thành con người thuần thiện,thì Phật Giáo mới thật sự là ngọn đuốc sáng soi đườngcho chúng sinh ra khỏi đêm tối vô minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4536)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7355)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4766)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5313)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10287)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9035)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6110)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8799)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4982)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]