Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06-Tất cả pháp không cố định

01/02/201108:04(Xem: 6279)
06-Tất cả pháp không cố định


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Tất Cả Pháp KhôngCố Ðịnh

Mọiconngười chúng ta đều mắc phải bệnh cố chấp, muốn cáigì mình yêu thích phải còn như vậy mãi. Mỗi khi những cáiđó đổi thay, mình sinh ra đau khổ chán chường, trách tạisao cái đó không giống ngày xưa. Bệnh cố chấp ấy khiếnchúng ta sống trong hiện tại mà tâm hồn vẫn lùi về quákhứ. Quá khứ đã qua, đã mất, mà chúng ta cứ sống vớicái mất, chính chúng ta đang sống mà đã chết đi rồi.

Trên đời, muôn vật luôn thay đổinhư dòng nước chảy, chúng ta muốn nắm đứng chúng lạichỉ là việc toi công. Sự biến chuyển đã thành qui luậtcủa thiên nhiên, không ai có quyền làm sai qui luật ấy. Nếuchúng ta muốn khác đi với qui luật này, là chúng ta tự rướclấy sự đau khổ vào mình. Bởi thời gian cứ chạy mãi thìmuôn vật cũng theo đó đổi thay. Chúng ta mới mua chiếc xeHonda thấy mới toanh, chạy mấy tháng sau đã phai màu, có vàibộ phận mòn lỏng. Nhớ lại lúc mới mua xe đem về, chúngta cảm thấy buồn chiếc xe cũ rồi. Một cái nhà mới cất,chúng ta thấy hài lòng, nhưng ở được vài ba năm đã thấytrên tường có mấy lằn rạn nứt, những màu nước vôi đãtrắng bạc, các cánh cửa đã lung lay. Chúng ta cảm thấy buồn,cái nhà mới cất mấy năm mà đã cũ. Mọi vật chúng ta luônluôn biến đổi, biến đổi theo thời gian và biến đổi donhân duyên hội tụ đủ thiếu. Ðóa hoa sen trong hồ, xây ởtrước sân, vừa nở tròn thơm nhẹ, nhìn nó chúng ta cảmthấy vui lâng lâng. Vài hôm sau từng cánh hoa rơi lả tả,chúng ta trông thấy lòng buồn rười rượi. Cây cam trướcnhà sung sức cành lá sum sê, trái đeo cằn nhánh, chúng ta nhìnnó với nụ cười thích thú. Mây năm sau, cây cam già lụilá rụng cành khô, chúng ta nhìn nó với vẻ buồn thất vọng.Chúng ta muốn giữ mãi cái gì làm đẹp mắt chúng ta. Chúngta cố bám chặt cái gì đem lại quyền lợi cho chúng ta vànhững cái gì có tính thân tình liên hệ với chúng ta, khimất mát nó chúng ta mới thật buồn khổ. Ðây là lòng thamcố giữ cái sở hữu của mình. Nếu chiếc xe của ngườikhác hư, cái nhà người khác cũ, chúng ta có buồn không? Quảlà do cái chấp ngã sở của chúng ta, nên khi vạn vật vôthường sinh diệt, chúng ta liền bị lôi kéo theo. Cố chấplà si mê, không thể thấy được sự thật của cuộc đời.

Con người chúng ta cũng thế, vềthể xác thì tế bào sinh diệt, diệt sinh liên tục không dừng.Hết thời tăng trưởng tới thời suy tàn, như dòng nướcthủy triều hết lên lại xuống. Thế mà, chúng ta nghe nóithân này già là cảm thấy buồn. Có những người thời traitrẻ khuân vác gánh gồng, làm nhiều mà không thấy mệt. Ðếnkhi tuổi sắp lục tuần, ra làm chút ít đã thất thở hàohển, tự trách tại sao bây giờ yếu lắm vậy. Họ đâu biếtthân họ đã đến lúc tàn cỗi rồi. Người ta cứ tưởngmình như thuở nào, chớ không biết mình đang xê dịch lầnvề cõi chết. Bởi vậy nghe nói cái chết đâm ra hoảng sợ.Ðó là chúng ta không biết thể xác này luôn luôn biến đổivô thường. Sợ chết, sợ mất thân này là do si mê chấpngã mà ra. Ðến phần tinh thần cũng vậy, trong ấy luôn luônbiến đổi diệt sinh. Tâm niệm này sinh tâm niệm kia diệt,cứ mãi đổi thay không cùng. Có ai đó nghĩ rằng tâm niệmmình trước sau như một, đây là một nhận định sai lầm.Bởi họ cho tâm niệm mình trước sau như một, nên thấy tâmai trước trắng sau đen, họ đâm ra bực bội căm hờn. Họquên rằng mỗi khi hoàn cảnh đổi thay, hoặc hội nhập vàoxã hội xa lạ, tâm con người liền chuyển đổi theo thờitheo cảnh. Chúng ta đừng ngây thơ nghĩ rằng kẻ kia trướcthế nào, ngày nay dù hoàn cảnh khác đi tâm họ vẫn như xưa.Ðó là nhận định sai lầm khiến ta ôm hận suốt đời. Nỗiđau khổ của con người là sợ già sợ chết, sợ ngườithân đổi dạ thay lòng. Song cái sợ ấy làm sao tránh khỏi.Chỉ cần sáng suốt nhận rõ rằng thân này là tướng vôthường hoại diệt, tâm này là một dòng biến chuyển vôchừng. Ðược vậy, thân ta có già có chết cũng không buồn,lòng người có đổi trắng thay đen cũng chẳng lạ. Thế làchúng ta sống cuộc đời an ổ vô cùng.

Ðây tôi thuật lại chuyện "Cốnhân về thăm cố hương" cho quí vị nghe: Tôi rời khỏi quêhương năm 1947, đến năm 1980 tôi trở về thăm. Quê hươngtôi là nơi tôi đã sống hơn hai mươi năm thật là gắn bóvà thân thiết biết bao. Từ chùa Phước Hậu thuê thuyềnmáy đưa thầy trò chúng tôi về Rạch Tra. Ðến vàm RạchTra rồi! Chú phụ lái ngồi trước nói. Tôi vội vàng chunra khỏi mui, ngồi trước mũi thuyền. Ðây là giòng sông thânthuộc chứa chan biết bao kỷ niệm ngày xưa. Tôi tin rằngkhông thể nào quên được những ngôi nhà của bà con thânquyến nằm bên cạnh bờ sông. Nhưng than ôi! nhìn hai bên bờsông tôi thấy lạ hết, những cảnh ngày xưa tôi biết,ngàynay đổi khác. Nào là nhà bác Chín Chiếu, nhà ông Cả Lập...,tôi không tìm ra ở chỗ nào. Cho đến bến sông nhà tôi ngàyxưa, một chiếc cầu thang bắc xuống sông, bên phải bụitầm vông, bên trái cây mít, kế một cái xẻo đi vô trong,nơi để ghe xuồng khi chúng tôi đi đâu về. Những hình ảnhnày tôi tìm mãi, tìm mãi mà không thấy. Thuyền đi khá xa,tôi đã biết ra khỏi nhà xưa của chúng tôi rồi. Bảo dừngthuyền lại, tôi tìm lên cầu lên bờ hỏi thăm, mới biếtlà đã đi quá hơn nửa cây số. Thuyền quay trở lại, ghéngay bến theo người hàng xóm chỉ. Tôi theo cây cầu dừa bắcduỗi xuống sông trơn trợt, chống cây làm gượng lên đếnbờ. Những đứa bé lớn có nhỏ có ở các nhà xung quanh thấythuyền đậu, chúng chạy úa đến xem. Tôi nhớ nhà tôi ngàyxưa ở giữa, bên cạnh xẻo là nhà chú Tám, bên trái nhìnra đường là nhà anh Hai Nhất, kế đó là nhà chú Bảy ...mà nay nhà cất loạn, không còn một chút dấu tích gì củangày xưa. Cho đến những người thân ngày xưa đâu mất cả,tôi không thấy ai, chỉ thấy đám người trẻ xa lạ khôngbiết tôi, cũng như tôi không biết họ. Mấy mươi phút sau,có mấy ông già, bà già đến, nhìn ra tôi mới biết đâylà anh Bảy, Nhung con cô Năm tôi, kia là cô Tư con chú Bảytôi, rồi thiếm Sáu Cừ dâu chú Tám tôi ... Nhìn ra tôi, mỗingười nghẹn ngào vừa mừng vừa khóc. Tôi cũng cảm thấynao nao trong lòng. Các vị ấy dẫn tôi đi thăm nền nhà cũcủa tôi, ở đây chỉ còn là một khoảnh đất trống, cuốcthành những luống khoai, trồng bắp. Tôi chợt nhớ đến haicâu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: "Lối xưa xe ngựa hồn thuthảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương". Những hình ảnhxưa sống lại trong ký ức tôi. Kế đến đi thăm những ngôimộ của ông nội, bà nội tôi, mà ngày xưa mỗi năm ông thântôi và tôi đều tảo mộ vào dịp hai mươi tháng chạp. Sắptừ giã trở về chùa Phước Hậu, mọi người vây quanh tôinhắc chuyện năm xưa, khi kia mọi người đều còn trẻ, mànay hầu hết đã từ biệt cõi đời, chỉ còn sót lại mộtít người gặp nhau mà không nhận ra nhau, khiến lòng tôi selại. Từ giã mọi người, chúng tôi trở về chùa PhướcHậu. Lòng tôi cứ ôn đi ôn lại, mình là "cố nhân về thămcố hương" hay là "người mới về thăm cảnh mới". Cảnhđã hoàn toàn mới, người cũng mới, bản thân tôi cũng mớiluôn. Khi xưa ra đi, tôi là một thanh niên trên hai mươi tuổi,ngày nay trở về tôi là ông già đầu bạc hoa râm. Khi xưatôi là người cư sĩ, ngày nay tôi là kẻ xuất gia. Từ thểxác lẫn tinh thần đều đổi mới. Nếu tôi cứ buồn tráchcảnh thay đổi, người thay đổi, sao tôi không tự trách tôicũng đã thay đổi. Ðúng như hai câu thơ của Thiền sư MãnGiác: "Trước mắt việc đi mãi, trên đầu già đến rồi"(Sự trục nhãn tiền quá, lão tùng đầu thượng lai). Chúngta mới thấm thía lẽ "Tất cả đều thay đổi, không có gìlà cố định". Cố bám lấy hình ảnh xưa cũ, chúng ta sẽđau buồn vì nó không còn như mình nhớ. Mọi vật là mộtdòng biến thiên từng phút giây, chúng ta luôn luôn sống vớicái mới. Nhận thức được như vậy, chúng ta sẽ cười khidòng đời luân lưu biến chuyển.

Bản thân các pháp là chuyển độnglà đổi dời. Thấy rõ sự chuyển động đó là thấy đượcsự thật. Nghĩ là các pháp là nguyên vẹn không đổi dời,là cái nghĩ sai lầm. Trên cái nghĩ sai lầm này, lại sinh tâmbuồn phiền than trách là cố chấp. Cố chấp là nguồn gốckhổ đau. Cho nên người học Phật phải thấy các pháp đúngsự thật của nó. Chính cái thấy đúng sự thật này là khoahọc. Vì khoa học nhận thấy sự vật là một dòng sinh diệtbất tận. Với con mắt khoa học hiện đại không thấy cómột sự vật nào mà không sinh diệt và đứng yên một chỗ.Từ thân người cho đến cây cỏ, từng tế bào sinh diệttrong ấy. Vì vậy người vật hết thời kỳ tăng trưởng,đến thời kỳ lão hóa và bại hoại. Có cái gì bền lâunguyên vẹn mà chúng ta cố chấp. Nếu cố chấp là si mê khônggiác ngộ, là sai lầm không đúng khoa học.

Sở dĩ các pháp biến chuyển khôngcố định, vì bản chất nó là vô thường vô ngã. Chúng tađịnh nghĩa sống là gì? Là động. Còn luân lưu biến độnglà còn sống. Dừng sự biến động là chết. Bản thân talà động, muôn vật là động. Ðã là động thì biến chuyểnđổi dời, đấy là vô thường. Sống trong biển biến độngvô thường của vạn vật mà chúng ta muốn nó được thường,thực là một điều không bao giờ có. Hành tinh chúng ta đangở, nó quay tròn mãi không dừng, nếu dừng lại là nổ tung.Chính thân chúng ta, tim đập mãi không dừng, một khi nó dừnglà chúng ta chết. Con người và muôn vật đều bám vào quảđất mà sống, bản thân quả đất lại quay cuồng, thì conngười và muôn vật làm sao an định được. Cho nên sự tồntại của quả đất, cũng như sự tồn tại của muôn vậtlà động, đấy là lý vô thường Phật đã dạy. Thấu triệtlý vô thường này, chúng ta sẽ cười trước mọi biến đổi,nhất là sự biến đổi của thân ta lúc bại hoại.

Con người và muôn vật sống trênquả đất, kể cả quả đất đều do nhiều nguyên tố họplại thành hình. Không có vật nào đơn thuần từ một nhântố mà thành. Ðã do nhiều nhân tố chung hợp thành sự vật,những nhân tố ấy nhà Phật gọi là nhân duyên. Nếu phântích một con người hay sự vật, chúng ta thấy nhiều lớpnhân duyên tụ họp thành. Nơi con người thì có mấy tỷ tếbào chung họp, mỗi loại đều có chức năng riêng. Ở mỗivật cũng do nhiều tế bào kết hợp, hay những hạt nguyêntử đang quay cuồng xoắn chặt vào nhau. Ðã nhiều loại nhiềuthứ thì loại nào thứ nào là chủ? Hoặc do nhiều thứ họplại thành, tức không có thực thể. Không có chủ, không thựcthể, Phật gọi là vô ngã. Từ vô ngã là chỉ cho mọi vậtdo nhân duyên hợp không có chủ thể, nên nói "chư pháp vôngã". Bởi vô ngã nên chúng ta không chấp mình thật, vậtthật. Không chấp mình là không chấp ngã, không chấp vậtlà không chấp ngã sở. Không chấp ngã và ngã sở thì còncái gì để chúng ta tham cầu. Nếu không tham cầu thì còngì lo sợ, còn gì bực tức. Thế là do thấy được lẽ thậtnơi con người và sự vật, chúng ta dứt được si mê. Do hếtsi mê, chúng ta dừng được tâm tham lam và nóng giận, ngangđây tam độc không còn. Ðó là kết quả tốt đẹp cuả ngườitu Phật.

Tóm lại, do biết rõ các pháp khôngcố định tức là vô thường, vô ngã, nên chúng ta buông xảtất cả cố chấp si mê. Chính đây là "chánh kiến"trong Bát Chánh Ðạo. Mọi cố chấp đều y cứ nơi con ngườivà sự vật. Thấy rõ người vật đều tạm bợ biến thiênkhông thật, thì mọi cố chấp đâu còn. Không còn cố chấpthì tất cả khổ đau đều tan biến. Sở dĩ chúng ta nhiềubuồn khổ là sợ thân này bệnh, chết. Biết bệnh chết làlẽ thường, con đường mà ai cũng phải đến, còn gì sợhãi việc bệnh và chết. Chúng ta sợ cái bất thường chỉđến riêng mình, nên cố gắng né tránh. Nếu là việc chungcủa tất cả, chúng ta có sợ cũng chỉ vô ích thôi. Cho nênTuệ Trung Thượng Sĩ khi sắp tịch, nằm trên cái giườngtại Dưỡng Chân Trang nhắm mắt tịch. Các bà thê thiếp khócrống lên, Ngài mở mắt quở: "Sanh tử là lẽ thường, tạisao làm náo động chân tánh ta". Rồi ngài nhắm mắt an nhiênmà tịch. Cho đến mọi vật sở hữu của ta cũng thế, nólà vật vô thường bại hoại, chúng ta muốn nó còn mãi saođược. Chi bằng thấy chúng là tướng giả dối tan hợp vôthường, khi chúng còn thì chúng ta dùng, khi chúng mất thìchúng ta cười, vì lẽ thường là như thế. Kinh Kim Cang Phậtdạy: "Phàm cái gì có tướng đều là hư dối"(Phàmsở hữu tướng giai thị hư vọng). Lối nhìn này là trọngtâm thoát khổ của chúng sanh. Chúng ta sợ khổ mà không chịumở con mắt trí tuệ thấy được lẽ thật nầy thì muônđời cũng không hết khổ.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2015(Xem: 8343)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9062)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9081)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7642)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10141)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 8049)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
20/09/2015(Xem: 11838)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8421)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9399)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 9008)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]