Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05-Ðức Phật Là Bậc Thầy Các Nhà Khoa Học

01/02/201108:04(Xem: 6817)
05-Ðức Phật Là Bậc Thầy Các Nhà Khoa Học


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Ðức Phật Là BậcThầy Các Nhà Khoa Học

Phật(Buddha)là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn.Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nênchúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chânlý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đứcPhật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh.Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải quahơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thờigian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thậtchín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi vàthích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viếtnày, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếuđể đọc giả suy ngẫm.

Vềvũtrụ- Ðức Phật ra đời trên sáu thếkỷ trước công nguyên, còn các nhà khoa học được biếtđến, mới có từ thế kỷ thứ 18 sau công nguyên. Thế màở thời kỳ ấy, đức Phật nhìn trong vũ trụ thấy thếgiới không thể kể hết, nên trong kinh thuộc Hán tạng cónhững câu "Hằng hà sa số thế giới", nghĩa là thế giớinhiều như cát sông Hằng (Ganges), hoặc câu "vi trần sát" nghĩalà cõi nước (sát) nhiều như nhũng hạt vi trần. Ðến naycác nhà thiên văn học nhờ viễn vọng kính nhìn thấy trongbầu hư không có không biết cơ man là thế giới. Vô số ngôisao lấp lánh hiện trên nền trời trong lúc ban đêm, mà mắtchúng ta nhìn thấy được; là những hành tinh (thế giới),còn không biết có bao nhiêu hành tinh khác quá xa mắt khôngthể nhìn thấy được. Chính đây là bằng chứng cụ thể,nhờ khoa học giúp chúng ta hiểu được lời Phật dậy cáchđây trên 25 thế kỷ: Lại nữa, có lần Ðức Phật cùng cácthầy tỳ kheo đi vào rừng, nhìn thấy những lá rơi lả tảvà những lá vàng uá sắp về cành, đồng thời có nhũng chòinon vừa nẩy lộc và những mầm vừa nhú khỏi vỏ cây, Ngàidạy các Tỳ Kheo: Thế giới đang hoại, sắp hoại và đangthành cũng như lá cây trong rừng đang rụng, sắp rụng vàđang nẩy chồi, sắp nẩy chồi".Vì thế, đức Phật thườngdạy thế giới có bốn thời :Thành, trụ, hoại, không."Ngày nay các nhà khoa học cũng thừa nhận thế giới phảitrải qua bốn thời kỳ như thế. Ðây là cái nhìn thích hợpgiữa Phật học và khoa học mà cách cách nhau thời gian qúaxa.

Vềvạn vật- Vạn vật sinh thành và hoại diệttrên đời, dưới con mắt trí tuệ của đức Phật đều do"duyênkhởi". Duyên khởi là nhân duyên sinh khởi, không có mộtvật nào hình thành mà không do các duyên nhóm họp. Nếu nóisự vật ngẫu nhiên tự thành, hoặc có bàn tay mầu nhiệmnào tạo dựng đều không đúng sự thật. Ðức Phật xácnhận vạn vật do nhân duyên tụ họp thì thành, nhân duyênly tán thì hoại. Sự thành hoại cuả vạn vật đều do duyên,là chỗ thấy như thật của đức Phật. Bởi thế trong kinhPhật thường dạy "Các pháp do duyên khởi, không có thựcthể, các pháp do duyên khởi, không có cố định". Khôngcó thực thể là thuyết "vô ngã". Không có cố địnhlà thuyết "vô thường", mà trong kinh thường nói "chưhành vô thường, chư pháp vô ngã". Không khi nào có một nhânđơn thuần thành hình một vật, cũng không khi nào có sựbất ngờ sinh ra một vật, mà phải đủ duyên mới thành.Vì vậy đức Phật không chấp nhận thuyết "nhất nhân"và thuyết "vô nhân". Với sự thực này, ngày nay khoahọc đã làm sáng tỏ, chúng ta không còn gì phải nghi ngại.Hơn nữa, trước mắt chúng ta thấy vô vàn sự vật, nếuđem ra phân tích đều do nhân duyên hợp thành, không có vậtnào tự thành hay do một cái gì đó làm thành. Sự thật hiểnnhiên này càng làm sáng tỏ lời đức Phật dạy. Chúng tathấy rõ Phật học và khoa học tuy thời gian cách xa mà khôngcó giới tuyến ngăn cách.

Vềcon người- Khi Phật còn tại thế, Ngài nhìntrong bát nước thấy vô số vi trùng, trong kinh Hán tạng cócâu "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng"Nghĩa là Phật nhìn trong bát nước thấy tám muôn ngàn (84000)vi trùng. Ngày nay nhờ kính hiển vi, các nhà khoa học thấytrong nước có nhiều vi trùng. Lại nữa, Phật nhìn thấy trongthân người thấy vô số vi trùng, trong Hán tạng có câu "nhơnthân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung nhi trú" Nghĩalà trong thân người có vô số vi trùng đang trú ẩn bên trong.Ðiều này ngày nay chúng ta chỉ cần có chút ít kiến thứckhoa học là không còn nghi ngờ gì nữa.

Nghiệplực- Nếu không có một đấng nào an bày,muôn vật làm sao được sanh thành, hoại diệt và sinh hoạttrong một trật tự nhất định? Nhà Phật nói "do sức nghiệpthúc đẩy và thu hút mọi vật hình thành, khi mãn nghiệp thìhoại diệt. Cũng như do động lực của nghiệp nên mọi vậtsinh hoạt trong một trật tự nhất định"Nghiệp là độnglực lôi cuốn các duyên tụ họp lại thành hình sự vật;khi sức nghiệp mãn các duyên ly tán thì sự vật hoại diệt.Nghiệp có khả năng cuốn hút sự vật quay cuồng trong quĩđạo nhất định. Ngày nay các nhà khoa học đã nói do sứcquay và sức hút của mọi vật trong vũ trụ, các hành tinhtrong bầu vũ trụ hoặc lớn hoặc nhỏ đều quay cuồng tronghư không và trong một quỹ đạo nhất định. Cho đến nhỏnhư một hạt nguyên tử cũng quay cuồng và xoắn chặt vàonhau mà thành hình muôn vật. Ðộng lực quay và hút này donghiệp lực tạo nên. Nghiệp là đông lực lôi cuốn theo thóiquen, đồng thời cảm ứng với vật khác đồng tính nên bịthu hút. Do nghiệp chi phối nên con người và muôn vật trênthế gian được thành hình và sinh hoạt trong một phạm vinhất định nào đó, khi sức nghiệp mãn con người và muônvật theo đó hoại diệt. Song nghiệp có thể chuyển đổiđược, không phải cứng nhắc cố định, vì nó là độnglực.

Tuy nhiên thuyết nghiệp báo luânhồi đã có trước thời đức Phật, xuất phát từ các kinhPhệ Ðà (Véda); song với tinh thần tôn trọng chân lý, đứcPhật xét thấy đúng sự thật liền ứng dụng đem dậy đệtử tu hành. Trong đó, đức Phật có sửa đổi những phầnlệch lạc theo quan niệm Bà la Môn giáo để lý thuyết nàyđược hoàn chỉnh hơn. Vì vậy, ngày nay mọi người đềuthừa nhận thuyết nghiệp báo luân hồi là của đạo Phật.

ÐạoPhật đặt trọng tâm ở con người - Chỗ thấybiết của đức Phật đúng sự thật, hợp chân lý, nên trảiqua thời gian dài mà không sai chạy hay lạc hậu. Ðức Phậtkhông dùng cái thấy biết tuyệt vời ấy để phân tích ngoạicảnh, sử dụng ngoại cảnh phục vụ con người. Ngài chỉdùng cái thấy ấy biết ấy để soi sáng thẳng vào con người,để thấy biết con người tường tận từ thể xác lẫn tinhthần. Biết rõ con người rồi, đức Phật dạy cách sốngđúng tư cách con người, đồng thời chuyển hoá thân tâmđẻ được an lạc trong hiện tại và mãi sau kia. Có lầnđức Phật cùng các thầy Tỳ kheo đi vào rừng Simma, Ngàidùng tay nắm một nắm lá cây đưa lên hỏi các thầy Tỳkheo" "Lá cây trong tay ta nhiều hay lá lá cây trong từng nhiều?"Các thầy Tỳ kheo thưa :"Lá cây trong tay Thế Tôn rất ít sovới lá cây trong rừng" Ðức Phật dạy "Cũng thế, cho ta thấybiết nhiều như lá cây trong rừng, những điều ta dạy cácông ít như lá cây trong nắm tay ta" Ðiều này khiến chúngta thấy rõ, dù việc ấy đúng sự thật mà không cần thiếtcho sự đào tạo xây dựng con người được an vui hạnh phúchiện tại và mai sau, Phật vẫn không đem ra chỉ dạy. Phậtchỉ dạy những điều cấp thiết để giải quyết mọi khổđau cho kiếp sống con người. Vì tuổi thọ con người quángắn (60--70 năm) không đủ thì giờ để học hiểu hết mọiđiều trên thế gian này.

Phần hệ trọng nhất nơi con ngườilà tinh thần. Tinh thần sai sử thể xác tạo thành nghiệplành nghiệp dữ, cảm thọ quả khổ, vui ở hiện tại vàvị lai. Cho nên bao nhiêu lời khuyên răn của Phật đều đặtnặng sự chuyển hoá nội tâm của con người. Con người nộitâm được trong sáng thì đời sống hiện tại đầy đủý nghĩa, sau khi kết thúc cuộc đời mọi sự sáng trong tươiđẹpđang sẵn sàng chờ chực. Ðây là trọng tâm cứu khổ chúngsinh của đức Phật Thích Ca, cũng là của đạo Phật.

ÐạoPhật chủ trương giác ngộ, giải thoát, từ bi, bình đẳng- Ðức Phật do giác ngộ nên thành Phật, suốt đời giáohoá của Ngài cũng lấy giác ngộ làm trọng tâm. Người tuPhật mà thiếu giác ngộ là không phải người đệ tử chânchính của đạo Phật. Khổ đau gốc từ vô minh, muốn hếtkhổ đau phải dứt sạch vô minh. Chỉ có ánh sáng giác ngộmới dẹp tan được màn vô minh, ngoài giác ngộ ra không còncách nào dẹp được vô minh. Như chỉ có ánh sáng mới dẹpđược bóng tối, ngoài ánh sáng không có cái gì dẹp đượcbóng tối. Vô minh không tan thì đayu khổ làm sao hết được.Vì thế, phương pháp duy nhất để cứu khổ chúng sinh làgiác ngộ. Ðây là nguyên nhân đạo Phật lấy giác ngộ làmchủ yếu.

Nhờ giác ngộ con người mới giảntrạch được điều chân lẽ ngụy, thấy rõ cái gì trói buộc,cái gì tự d, nên chọn được lối sống thích ứng lẽ thật,phù hợp với tinh thần tự do. Tự do đây không có nghĩa đòihỏi bên ngoài, nơi kẻ khác mà tụ chiến thắng những dụcvọng đê hèn của mình, hàng phục được vọng tưởng điênđảo của nội tâm. Ðúng với câu đức Phật dạy: Thắngmột vạn quân không bằng thắng mình, thắng mình mới làchiến công oanh liệt". Tinh thần tự do của đạo Phậtlà làm chủ toàn vẹn thể xác lẫn tinh thần của chính mình.Ðó là tự do tuyệt đối, cũng là giải thoát của Phật dạy.

Ðem vui và giải khổ cho chúng sanhlà lòng từ bi của đạo Phật. Muốn cho mọi người hếtkhổ được vui, tu sĩ Phật Giáo lúc nào cũng đưa cao ngọnđuốc chánh pháp cho mọi người mồi, để cùng thắp sángtrong căn nhà tăm tối muôn đời của mình. Bản thân mình,người tu sĩ phải chiến thắng phiền não để làm mẫu mựcvà chỉ dạy người dẹp trừ phiền não. Vô số khổ đaucủa chúng sanh đều phát xuất từ si mê và phiền não. Thiếuthốn vật chất là đau khổ đã đành, có khi thừa mứa vậtchất người ta vẫn đau khổ như thường. Cho nên trí tuệlà hòn ngọc quý để đổi lấy của cải và sự nghiệp,trí tuệ là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta tránh khỏi lạclối lầm đường. Dứt một phần phiền não, chúng ta đượcmột phần an lạc, hoàn toàn sạch phiền não thì còn gì làmphiền lụy chúng ta. Sau khi mở sáng con mắt trí tuệ và dứtsạch phiền não, con người mới được an vui tự tại đầyđủ. Người tu sĩ Phật giáo tha thiết cứu khổ chúng sanhbằng cách tận lực chỉ dạy cho mọi người được trí tuệvà tự do.

Phật giáo chỉ nhìn chúng sanh đềubình đẳng trong bản tánh, chỉ có sai khác trên nghiệp tướng.Nghiệp tướng là cái sinh diệt biến động, bản tánh chưabao giờ sinh diệt đổi thay. Cái sanh diệt biến động làtạm bợ, đã tạm bợ dù sai khác thế mấy cũng không quantrọng. Chính cái quan trọng là bản tánh thường hằng củachúng sanh. Cho nên đức Phật thường dạy "Tất cả chúngsanh đều có tánh Phật", đó là lối nhìn bình đẳng củaPhật giáo. Thấy thấu suốt được lẽ này, chúng ta sẽ dứtđược tâm tự cao ngã mạn và không còn dám khinh thườngmột ai. Ðây là nền tảng đạo đức chân thật, nên Bồtát Thường Bất Khinh thấy ai cũng nói "Tôi không dám khinhcác ngài, các ngài sẽ thành Phật". Ðã sẵn có tánh Phậtthì người nào tu mà chẳng được, chỉ do chưa thức tỉnhvà lười nhác mà thôi. Do cái nhìn thấu suốt này, ngườitu theo đạo Phật không bai giờ có tâm kỳ thị với bấtcứ nhóm nào, cũng không có tâm khinh khi miệt thị ai.

Ðạo Phật lấy giác ngộ làm gốcrễ, lấy giải thoát làm hoa trái, lấy từ bi và bình đẳnglàm nhựa sống. Bốn yếu tố này rất thiết thân với nhânloại văn minh. Bất cứ nền văn minh chân chính nào đòi hỏicon người phải có đủ trí tuệ sáng suốt, thong thả tựdo, tình thương làm vơi cạn đau khổ cho con người, bình đẳngkhông chấp nhận giai cấp, không kỳ thị tôn giáo, chủngtộc, màu da. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này, dù nóivăn minh vẫn chưa thực sự văn minh. Ðứng từ góc độ nàymà nhìn, chúng ta thấy đức Phật đã quả thực đi trướccác nhà khoa học xa; tương lai dù nhân loại văn minh tiếnbộ đến đâu cũng khó qua mặt được đạo Phật.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2018(Xem: 7533)
Bài viết này bàn về khả năng tên gọi 12 con giáp có gốc là tiếng Việt cổ, chú trọng đến chi thứ 12 là Hợi, đặc biệt cho năm Kỷ Hợi sắp đến (5/2/2019). Bài này đánh số là 5B vì là phần tiếp theo của các bài 5, 5A cùng một chủ đề - các bài 5 và 5A đã được viết cách đây nhiều năm. Trong thời gian soạn bài
10/12/2018(Xem: 6780)
Buổi sớm mai ngày cuối tuần. Đang đọc sách và thưởng trà. Tự nhiên nhớ đến thầy Vạn Lợi, một vị tu sỹ đang giảng dạy tại Học viện Phật giáo Việt Nam trên Sóc Sơn và tại viện Trần Nhân Tông. Nhấc máy gọi cho thầy. Thầy Vạn Lợi nhấc máy hàn huyên. Rồi thầy rủ đi Hưng Yên, về chùa Cổ Am.
10/12/2018(Xem: 5411)
Sáng nay nhận tờ lịch đón năm mới 2019 đầu tiên đến nhà. Vẫn là Báo Giác Ngộ như mọi năm. Ảnh Lịch mang chủ đề "Sen". Thư pháp tiếng Việt bình dị chân phương của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lịch có 7 tờ, lật giở từng tờ, đọc và suy ngẫm, thích nhất là tờ lịch của tháng 9&10, câu "Có Bùn mới có Sen", bởi:
09/12/2018(Xem: 5850)
CẤU TRÚC THÂN TÂM Nguyên bản: The Inner Structure Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
04/12/2018(Xem: 5064)
Từ khi đọc được lời dạy của Sư Ông Thích Nhất Hạnh trong TRÁI TIM CỦA BỤT rằng , có người đến tuổi trung niên rồi 60 hay nhiều hơn nữa mà chưa bao giờ có đủ thì giờ để ngắm nhìn sâu sắc vào một đóa hoa đang nở trong vườn hay ngắm ánh trăng đang tỏa sáng bên song cửa vào đêm rằm ....tôi chợt tư duy nghĩ lại những gì thật sự gọi là giá trị một đời người , thế nào là hạnh phúc một đời người và phải chăng ta chưa biết được mình đang là người hạnh phúc ...
01/12/2018(Xem: 7804)
Nếu trong lúc chúng con tụng chú Lăng Nghiêm mà phát âm không hoàn toàn chính xác thì có sao không? Ngày xưa có một ông lão tu hành rất chân thật, nên lúc nào ông cũng không rãnh rỗi. Ông lão làm gì? Ông lão trì chú, tức là trì “Lục Tự Đại Minh Chú.” Nhưng ông lão tu hành này niệm không đúng. Bởi vì ông đã không hỏi cho rõ ràng cách đọc như thế nào, mà lại tự ý đặt ra. Hoặc là ông có hỏi qua, nhưng vì trí nhớ không mấy gì tốt, cho nên người ta dạy: khi chữ khẩu (口) bên cạnh chữ Án (奄) thì có âm đọc là Án (奄)Vì thế mà ông nghĩ rằng khi chữ khẩu có thêm chữ Ngưu (牛), thì nhất định cũng đọc là Ngưu. Thật ra chữ đó không phải phát âm là Ngưu (牛) mà có âm đọc là Hồng (吽). Thế là ông lão niệm câu chú Án Ma Ni Bát Di Ngưu, Án Ma Ni Bát Di Ngưu, Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Ông lão cứ như vậy mà niệm rất thành tâm, rất hứng thú. Với lòng nhiệt tâm và nghị lực trì niệm của ông, thì thật là bao nhiêu sức mạnh của chữ ngưu ( trâu ) đó như phát xuất ra vậy.
29/11/2018(Xem: 6839)
Trong cương vị Thống Đốc tiểu bang Hawaii, bản thân là một Phật tử và là da màu, David Yutaka Ige suy nghĩ thế nào trong thời đại của Tổng Thống Trump, một người Thiên Chúa Giáo không gương mẫu và là một chính khách không tin các nghiên cứu về biến đổi khí hậu? Tạp chí Lion’s Roar đã có bài phỏng vấn Thống Đốc David Yutaka Ige về nhiều phương diện, đặc biệt về suy nghĩ của một Phật tử như Ige. Ông David Ige sinh ngày 15/1/1957, giữ chức Thống Đốc tiểu bang Hawaii từ năm 2014, và tái thắng cử năm 2018. Là một đảng viên Dân Chủ, trước đây từng là Thượng nghị sĩ cấp tiểu bang Hawaii (1996-2014), Dân biểu cấp tiểu bang Hawaii (1985-1995).
27/11/2018(Xem: 7655)
Bài này là phần 3 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm.
26/11/2018(Xem: 6500)
Đêm đã khuya ánh trăng xuyên qua những tàn cây, gấp lại quyển sách còn dang dở, đi dạo một vòng ngoài sân để hít thở, ngước nhìn lên bầu trời cao rộng ánh trăng thật sáng, nhìn trăng nơi nầy lại chợt nhớ ánh trăng năm nào nơi quê nhà. Thế là những ký ức lại ùa về…
24/11/2018(Xem: 5944)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị ân nhân. Sau chuyến hành hương Phật tích India năm nay, (chúng con) chúng tôi có duyên lành viếng thăm các tu viện Phật giáo tại Dharamsala- Himachal India, được cơ hội tiếp xúc với các vị ''ẩn sỹ rừng xanh'' , và sống hòa mình với thiên nhiên của núi rừng Himalaya thanh khiết. Điều quí hóa hơn cho chúng tôi nũa là được quý thiện hữu, pháp hữu phát tâm lành hỗ trợ cho tâm nguyện cúng dường, gieo duyên cùng chư Lạtma, ẩn sỹ tại đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]