Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Điều Phục Tâm

06/01/201111:11(Xem: 9808)
6. Điều Phục Tâm

 

6
ĐIỀU PHỤC TÂM

 

Nếu bạn lơlà trong việc bảo vệ tâm
Bạn không thểđóng cửa đau khổ

và cũng khôngthể mở cửa hạnh phúc

Đừng làm nhữngđiều phi đạo đức

Hãy làm nhữngđiều đạo đức hoàn hảo

Hãy điều phụctâm của bạn

Đây là giáo lýcủa Phật.

KHI CHÚNG TÔIcùng nhau trì tụng đoạn kệ này của Đức Phật và như ngài Kirti Tsenshab Rinpochegiải thích, chúng tôi nhớ rằng đoạn kệ có chứa Tứ Diệu Đế. Bạn đang chịuđựng sựkhổ thật sự (Đế đầu tiên)–chẳng ai ước muốn khổ – và bạn cần đạt hạnh phúc tốithượng chấm dứt mọi khổ đau (Đế thứ 3), điều này tuỳ thuộc vào việc chấmdứttoàn bộ các nhân đích thật của khổ (Đế thứ 2); và việc đạt được điều nàytùythuộc vào việc làm cho toàn bộ con đường Đạo chân thật trở thành hiện thực (Đếthứ bốn).

Điều cốtlõi của đoạn kệ này là khuyên không can dự vào bất kỳ hành động phi đạo đức nàocả. Nếu nghĩ rằng nguồn gốc của khổ đau và các vấn đề của cuộc sống là từ kháchquan bên ngoài thì ý nghĩ đó chính là vấn đề. Không coi tâm là nguồn gốccủacác vấn đề và đổ lỗi cho các tác nhân bên ngoài như người khác, đối tượng khác,thái độ đó chỉ tạo thêm nhiều vấn đề hơn. Suy nghĩ theo kiểu này – và cũng chorằng hạnh phúc đến từ bên ngoài – là chúng ta chẳng đếm xỉa gì tới tâm cả. Tâmnày từ vô lượng kiếp trước đã không được điều phục giờ đây vẫn để y nguyên nhưvậy, vẫn đang không được điều phục. Chẳng có gì tốt hơn, chẳng có gì thay đổi.Chúng ta liên tục tạo ra nhân đau khổ cho các kiếp sau và tạo ra các vấnđềngay đây trong đời này.

Thật tốt khiliên hệ đoạn kệ này với các vấn đề trong qúa khứ, đặc biệt có hiệu quả khi ápdụng “ điều phục tâm của bạn” đối với sự kiêu mạn, sân hận, ganh tị, hammuốnvà sự vô minh dày đặc. Điều phục những vọng tưởng (phiền não) này là giáo lýcủa Đức Phật. Không điều phục chúng thì không phải giáo lý của Đức Phật –nóicách khác, không làm gì để giải quyết vọng tưởng nhưng lại bận rộn làm nhữngviệc khác và coi đó là tu tập tâm linh thì không phải là giáo lý của ĐứcPhật.

Vọng tưởng làmcho tâm không vui, không an, không thuần phục. Mặc dù các hành động của chúngta trông giống như Pháp và được gọi là “Pháp” hay “tu tập tâm linh” nhưng nếuchúng không phá hủy vọng tưởng thì chúng không phải là giáo lý của Đức Phật. Cómột định nghĩa về Pháp là “bất kỳ thứ thuốc nào mà chữa trị được vọngtưởng”. Nếu có một hành động được thực hiện dưới danh nghĩa Thiên Chúa giáo haymột tôn giáo nào khác mà là thuốc chữa trị vọng tưởng – điều phục sân, tham, sivà ích kỷ – thì đó là Pháp. Bất cứ cái gì mà không phải là thuốc chữa trị vọngtưởng thì không phải là Pháp. Như đức Dalai Lama có nói, Pháp là bất cứ điều gìmàsửa chữa được hay an định được tâm. Khi có một đồ dùng nào bị hư thì việc sửachữa nó là tốt bởi vì làm cho bạn vui và nó sẽ là phương tiện có ích chocuộcsống của bạn và của người khác. Cũng vậy, Pháp là sửa chữa tâm. Phương pháp nàomà không phá hủy được vọng tưởng thì không an định được tâm. Không có cách nàocải thiện được tâm mà không loại trừ vọng tưởng. Vọng tưởng cần phải được loại trừ.

Để mang lạihạnh phúc cho bản thân và cho những người khác, Pháp phải là thuốc chữa vọngtưởng. Nếu Pháp hỗ trợ vọng tưởng thì không cần biết chúng ta tu tập baonhiêu chúngta sẽ không thấy có sự cải thiện ở trong tâm; ngược lại, tâm sẽ trở nên mỗi lúcmột tồi tệ hơn: càng không được thuần phục hơn, càng khó khăn hơn. Dù chúng tacó thể luôn đang nghe giảng Pháp, thuyết Pháp, đọc Kinh điển, hay đang sốngtrong một trung tâm Phật Pháp, thậm chí cả cuộc đời luôn có liên hệ với Pháp,nhưng nếu vọng tưởng gia tăng thì việc tu tập tâm linh hóa ra là đang hỗtrợcho vọng tưởng thay vì phá huỷ chúng. Nếu kiêu ngạo, sân hận, ham muốn và nhữngthứ tương tự gia tăng thì việc tu học Pháp của bạn đang tạo ra thêm nghiệp bấtthiện thay vì tịnh hóa những nghiệp bất thiện có sẵn trước.

Để nhận đượchạnh phúc từ Pháp, việc tu tập của bạn phải làm sao phá hủy được vọng tưởng. Vídụ như dược phẩm, nếu làm cho bệnh phát sinh hay nặng thêm thì thuốc đó không chữađược bệnh mà còn làm lệch hướng việc chẩn và trị bệnh. Thuốc là thứ dùngđể trịbệnh chứ không làm bệnh trầm trọng hơn.

Câu “điều phụctâm của bạn” chỉ vỏn vẹn mấy chữ, nhưng ý nói là phải giải quyết toàn bộcác chechướng (quan niệm sai-ND) từ việc thấy những khuyết điểm của vị thầy chotớinhững quan niệm nhị nguyên vi tế về ba tri kiến liên quan đến giai đọan chuẩnbị màu trắng, giai đọan phát triển màu đỏ, giai đoạn thành tựu màu đen và ngaycả che chướng sau cùng và vi tế nhất là ngăn cản sự thành tựu tâm giác ngộ(Phật tâm). “Điều phục tâm của bạn” giải quyết toàn bộ các quan niệm saitráinày.

Câu cuối củabài kệ nói “Đây là giáo lý của Đức Phật” bởi vì điều phục tâm bạn là nguồn gốccủa hạnh phúc. Điều phục tâm bạn là giáo lý chính của Đức Phật. Từng mỗilời màĐức Phật dạy là nhắm tới việc điều phục tâm riêng của mỗi chúng sinh; ngoài rakhông có mục đích nào khác. Từng mỗi lời trong tất cả 84.000 Kinh điển –Kinhcủa Tiểu thừa, Đại thừa, Kim cang thừa – là nhằm điều phục tâm.

Hãy nhớ đến sựưu ái của Đấng Thế tôn Đại Từ Đại Bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, khi giảng dạy toànbộ các giáo lý của cả hai đường Đạo: nhân thừa và quả thừa. Đức Phật đã phát lộcon đường hoàn hảo đưa đến giác ngộ thông qua nhiều mức độ giảng dạy khác nhauphù hợp với các căn cơ tâm thức của chúng sanh hữu tình. Giờ đây chúng ta có tựdo và cơ hội để lắng nghe, soi rọi và thiền định trên đường đạo vô cấu này;chúng ta có thể tạo ra nhân vô cấu cho bất kỳ mức độ hạnh phúc nào chúngta muốn.Được như vậy là nhờ vào sự ưu ái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi Ngài bannhững lời giảng.

Đức Thích CaMâu Ni Phật khai mở con đường dẫn dắt chúng ta đến hạnh phúc; con đường theo đóchúng ta có được tự do để hiểu và tạo ra nhân để có hạnh phúc trong các đời sau,giải thoát và giác ngộ. Ngài giúp chúng ta phát triển tiềm năng của chúng ta,tức Phật-tánh của chúng ta. Gặp được Phật Pháp, tu tập theo đó, chúng tacó thểphát triển Phật-tánh của chúng ta và nhờ vậy mà đạt giác ngộ.

Bằng cách thiềnđịnh con đường mà Đức Phật phát lộ, từng bước chúng ta có thể phát triểnPhật-tánh của mình và do đó có thể hoàn thành ước nguyện cứu giúp chúng sinh hữutình. Chính nhờ sự ưu ái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta có thểthànhtựu trí huệ siêu việt của tâm, năng lực toàn triệt và đại bi viên mãn vìlợiích cho tất cả chúng sinh hữu tình.

Mọi sựbao gồm cả hạnh phúc lẫn khổ đau đều tùy thuộc ở tâm. Nếu không điều phục tâmthì khổ đau nổi lên; chính tâm sản xuất khổ đau này. Bằng việc điều phụctâm,bạn hưởng được hạnh phúc. Đây là lý do tại sao hạnh phúc của chúng sinh hữutình tùy thuộc vào sự hiện hữu của các giáo lý của Đức Phật.

Bởi vì mọi sựđều tuỳ thuộc vào chính tâm của chúng ta, nên chúng ta phải điều phục tâm mình.Chúng ta phải loại bỏ những suy nghĩ sai trái, chúng là nhân của khổ đauvàchúng mang vấn đề đến cho bản thân chúng ta và cho vô lượng chúng sinh khác,đời này và liên tục các kiếp sau. Nếu những suy nghĩ sai trái được loại bỏ thìchỉ còn có hạnh phúc, không còn nhân của các vấn đề, không có kẻ sáng tạo của vấnđề. Càng loại bỏ những quan niệm sai trái thì càng có hạnh phúc.

Che chở tâmcủa bạn

Trong tác phẩmBồ Tát Hạnh, Shantideva giải thích:

Cọp, sưtử, rắn, kẻ thù, người canh giữ địa ngục, các mụ phù thủy và kẻ ăn thịt người,tất cả đều bị trói lại chỉ bằng một việc là cột giữ tâm này.

Kiềm giữ tâmkhỏi suy nghĩ bất thiện, không cho phép tâm chạy theo cơn giận hay ham muốn, vôminh vân vân …, có nghĩa rằng bạn ngừng tạo ra nghiệp xấu ác. Khi bạn ngăn ngừatâm bạn khỏi bị vọng tưởng lôi kéo thì bạn không tạo ra nghiệp bất thiệndo vậybạn không chịu đựng quả mà các chúng sinh khác hại bạn và gây nguy hiểm cuộcsống của bạn.

Ví dụ,Devadatta luôn ganh tị cố tìm cách hãm hại Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Vàomột ngày, khi Đức Phật đang đi khất thực, Devadatta đem một con voi điêntớitấn công Đức Phật. Tuy nhiên thay vì gây nguy hại Đức Phật, con voi trở nênhoàn toàn bị thuần phục ở trước mặt Ngài. Tôi cũng nghe rằng con muỗi không baogiờ chích ngài Song Rinpoche. Và có một câu chuyện tương tự về thánh St.Francis ở Assisi, nước Ý; người sống cùng thời đại với Milarepa, vị đại Hànhgiả du-già Tây tạng, người đạt giác ngộ trong một đời người ngắn ngủi.

Có một con chósói sống trong rừng, nó hại nhiều người. Khi thánh Francis nghe được chuyện đó,ngài nói: “Tôi sẽ đến nói chuyện với con chó sói”. Mặc dù có người khuyên đừng đinhưng ngài vẫn giữ quyết định.

Thánh Francisđi vào rừng. Khi con chó sói đến gần ngài, thay vì hại ngài, nó bị ngài khuấtphục hoàn toàn. Giống như một con chó nuôi đi theo chủ, con chó sói trở nênthuần phục đến nằm bên cạnh và liếm chân ngài. Thánh Francis nói với conchósói rằng ngài sẽ cho nó thực phẩm và nó không được cắn người nữa. Từ đó trở đi,con chó sói không còn tấn công người dân.

Nhục thể củaThánh Francis hiện còn giữ ở Assisi, gần Trung tâm Lama Tsong Khapa ở Ý.LamaYeshe và tôi đã viếng Assisi. Lama Yeshe đã thiền định một lúc ở ngôi mộnơithân thiêng liêng của thánh Francis lưu ở đó. Có một thác nước gần Assisi và người ta nói rằngnếu nước bị cạn thì sẽ rất xui xẻo cho nước Ý. Thánh Francis có một đệ tử nữ tuvà người này có đến ba trăm đệ tử. Trong lúc ngài Francis còn sống, một trongnhững hang động bị nước từ trên mái nhỏ xuống. Một số đệ tử than phiền rằng họchẳng thiền định được vì tiếng nước rơi. Thường ngày thánh Francis gọi các đồvật là “em gái”, “em trai”. Ngài nghe học trò than phiền như vậy, liền đến hangđộng đó và nói với nước: “Em gái, hãy ngừng rơi vì học trò của tôi chẳngthiềnđịnh được”. Nước liền ngưng rơi.

Những câuchuyện như vậy là rất thông thường như trong các chuyện kể về cuộc đời các vịBồ tát. Nhiều câu chuyện kể về các hành giả du già Ấn Độ và Tây tạng yêucầunước sông ngừng chảy để họ đi qua sông sau đó nước chảy trở lại. Ở Tây tạng khicó trận lụt đang dâng nước đến gần tu viện của Bồ tát Jampa Monlam, ngàiliềnviết lên một tảng đá câu “nếu đúng sự thật tôi có bồ đề tâm thì xin nướchãythối lui”, rồi ngài đặt tảng đá ngay trước hướng nước lụt đang dâng đến;nướclụt lập tức rút đi. Những câu chuyện như vậy chứng minh được năng lực bồđềtâm, thiện tâm tối thượng.

Bằng việc cộtchặt tâm vào đạo đức, che chở nó khỏi vọng tưởng, bạn sẽ không tạo ra nghiệpxấu ác, nên sẽ không có gì nguy hại cho cuộc đời của bạn. Cũng vậy, do có bồ đềtâm, bạn sẽ điều phục được tâm mình. Cột chặt tâm bạn với đạo đức và tránh xanhững suy nghĩ phiền muộn thì giống như giam giữ hết tất cả những chúng sinh nguyhiểm như: cọp, rắn, kẻ gác cổng địa ngục, kẻ thù. Nếu bạn có bồ đề tâm ngay cảnhững hiểm họa thiên nhiên (động đất, núi lửa vân vân – ND) cũng không thể hại bạn;nhờ vào năng lực bồ đề tâm, bạn có khả năng kiểm soát được tai họa thiênnhiên.Bằng cách cột chặt một tâm này với bồ đề tâm, bạn ngăn cản được tất cả vô sốcon thú hung dữ và kẻ thù. Huấn luyện làm thuần thục một việc này thôi tức làtâm của bạn, bạn sẽ thuần hóa được tất cả những việc khác nữa.

Bạn không thểthực hiện được ý muốn giam hết tất cả các con thú hung dữ trên quả đất này vìbạn không thể sống mãi mãi. Và cho dù bạn sẽ không tái sinh ở quả đất này bạncũng sẽ tái sinh ra ở một hành tinh khác, chừng nào bạn còn nghiệp và vọngtưởng bạn sẽ gặp kẻ thù và thú hung dữ ở đó. Chừng nào tâm bạn chưa đượcđiều phụcthì luôn có sự hãm hại từ bên ngoài. Nhưng một khi tâm được điều phục, một khikhông còn sân hận trong giòng tương tục tâm thức thì sẽ không còn kẻ thùbênngoài. Khi nào cơn giận không thể nổi lên trong bạn thì bạn không còn tìm thấykẻ thù ở đâu cả. Kẻ thù bên ngoài chỉ xuất hiện khi có cơn giận ở bên trong.

Không vọngtưởng sẽ không có nghiệp bất thiện, cho nên sẽ không có ai hại bạn. Thêmvàođó, khi tâm bạn đạt được sự nhẫn-nhục-tự-tánh thì dù có ai đó chê bai, đánh haygiết bạn, bạn vẫn nhận ra được là không có kẻ thù bên ngoài. Khi bạn đạtđượcnhẫn nhục ba-la-mật (một trong sáu ba-la-mật) bạn sẽ thấy người khác là bạn tốtnhất của bạn ngay cả khi họ đang phê bình, đánh hay đang giết bạn. Chừngnàotâm bạn ở trong nhẫn-nhục-tự -tánh bạn lúc đó không thấy có kẻ thù bên ngoàiđang hại bạn mà chỉ có người đang làm lợi cho bạn. Nhưng ngay khi tâm thay đổi,chuyển sang giận dữ thì bạn thấy con người đó đang hại bạn.

Luận giảng Khaimở Cánh cửa Pháp có nói:

Có lợi gìđâu cho những lời dạy khác với lời dạy bảo vệ tâm?

Sẽ rất tốt khibạn nhớ điều này trong cuộc sống hàng ngày. Nếu bạn quên bảo vệ tâm của mìnhthì có ích gì đâu với các truyền thống giữ giới khác? Nếu tâm không đượcbảo vệbạn không thể chận đứng được khổ đau và các vấn đề của bạn. Dù cho bạn có thểtu tập hàng trăm việc khác nhưng nếu bạn bỏ qua việc tu tập quan trọng nhất này(che chở tâm – ND) thì bạn không thể chận đứng các vấn đề và không thể đạt hạnhphúc đặc biệt là hạnh phúc tối thượng. Rất cần để nhớ điều này. Có ngườitrì tụngrất nhiều kinh cầu nguyện, hàng triệu mật chú suốt ngày nhưng nếu họ quên khôngtự che chở tâm thì việc tu tập hằng ngày trở nên lãng phí vô ích. Tâm bạn lànguồn gốc của tất cả khổ đau và hạnh phúc riêng của bạn. Nếu bạn lơ là việc chechở tâm thì bạn không thể đóng cánh cửa vào khổ đau và cũng không thể mởcánhcửa vào hạnh phúc.

Ở phương tây cónhiều luật lệ: bạn không thể làm điều này, bạn không thể làm điều kia. Đôi khitôi nghĩ rằng đã có quá nhiều luật. Có một lần tôi tới Sydney ngụ trongmột nhà có hồ bơi và phòngxông hơi nóng. Có vài người đang chơi ở hồ, nhảy từ bục gỗ cao. Người láng giềngbực mình. Họ than phiền nhà chúng tôi quá ồn và họ gọi cảnh sát.

Tôi đang ởtrong phòng. Tôi không thấy bên ngoài nhà nhưng tôi nghe có cảnh sát tới. Thấykhông có gì, cảnh sát bực bội bỏ đi. Người láng giềng trước đó báo cảnh sát lànhững người ở trong hồ bơi quấy nhiễu họ. Cảnh sát cho rằng người láng giềngnói vô lý, uổng công họ từ ngoài thị trấn lái xe vào. Cũng ngay buổi chiều hômđó trẻ con nhà láng giềng đã chơi đùa ầm ĩ.

Không cần biếtcó bao nhiêu luật lệ đã được đặt ra; chừng nào việc bảo vệ tâm không được chú ýở trường tiểu học, ở đại học hay trong nếp sống văn hóa thì luôn có các vấn đềxảy ra, tiếp tục xảy ra. Mọi người phải che chở tâm của mình. Thay vì nói “mỗingày ăn một quả táo thì bác sĩ không đến nhà” chúng ta có thể nói “mỗi ngày cóche chở tâm, cảnh sát không đến nhà”!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5382)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4394)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5259)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5492)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8602)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6463)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6203)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4516)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9517)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5969)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]