Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Nói Đầu Của Người Biên Tập

06/01/201111:01(Xem: 10857)
Lời Nói Đầu Của Người Biên Tập

 

LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

 

Tháng hai năm1990, hơn một trăm Phật tử từ nhiều nơi trên thế giới tập trungvề học ở tu viện có tên Root Institute, một trung tâm Phật giáo trong thành cổBồ Đề Đạo Tràng, Ấn độ, nơi mà Đức Phật đã thành tựu Chánh Giác cách đây2500năm. Lớp học là một cái lều rộng trang hoàng nhiều màu sắc được dựng lêntrênnền đất của tu viện ngày xưa.

Khóa học này làmột phần hoạt động định kỳ của các khóa giảng giáo lý và lễ quán đảnh cótên “Kỷniệm sự thành tựu giác ngộ lần thứ ba” do Tổ chức Bảo tồn Truyền thống Phậtgiáo Đại thừa (viết tắt FPMT) lập ra.

Từ ngày 16 đến ngày 25 tháng hai năm 1990, LamaThubten Zopa Rinpoche (từ đây trở đi, từ “Rinpoche” chỉ cho Lama Zopa-ND),người lãnh đạo tinh thần của FPMT, đã giảng về “những giáo huấn của truyềnthống Kadampa”; khóa học có mười bài giảng dựa theo tác phẩm Khai mở Cánh cửaPháp do vị hành giả du già Tây tạng Lodro Gyaltsen trước tác vào thếkỷ15.

Rinpoche đã gâyngạc nhiên cho các đệ tử đang theo học khi tuyên bố rằng vào cuối những năm haimươi tuổi sau khi đọc tác phẩm đó, Rinpoche mới hiểu được ý nghĩa chân thật củaviệc tu tập Pháp. Họ ngạc nhiên bởi vì qua nhiều năm theo học vớiRinpoche và thông qua uy tín của ngài, các đệ tử hiện diện trong khóa học, bằngkinh nghiệm, đã biết rằng Rinpoche từng giây phút đã và đang hiến dâng cuộc đờimình cho Pháp, cho việc tu tập tâm linh; đồng thời họ cũng biết rằng Rinpochelà một tấm gương hoàn hảo của một hành giả tu tập Pháp. Như vậy rõ ràng,có mộtnhân duyên đặc biệt để được nghe khóa giảng này.

Như Rinpochethuật lại trong phần dẫn nhập, ngài sinh năm1946 trong vùng Solu Khumbu nước Nepal gần núiEverest. Theo lời kể lại của mẹ ngài, khi bắt đầu biết nói Rinpoche thường bảo:“tôi là Lawudo Lama”. Lawudo Lama có tên thật là Kunsang Yeshe đã mất năm 1945;ông nổi tiếng là một hành giả khổ hạnh và đạt giác ngộ rất cao. Trong hai mươinăm cuối đời, ông đã sống và thiền định trong một hang động ở Lawudo, vàlàngười dẫn dắt tâm linh cho dân cư địa phương. Đặc biệt ông đã phụng sự dân làngvới một năng lực vô tận và cũng như các đại hành giả du già, ông đã vượtquađược nhu cầu nghỉ ngủ.

Trên thực tế,bé trai đã được thừa nhận là vị tái sinh của Lawudo Lama. Ngawang Chopel,đệ tửchính của Lawudo Lama, theo truyền thống, đã đến tham vấn nhiều Lama caocấp ởTây tạng, tất cả đều đồng ý xác nhận vị tái sinh này. Thêm nữa, Lama ZopaRinpoche đã chỉ trúng các vật dụng cũ của Lawudo Lama đã dùng.

Trong phần dẫnnhập, Rinpoche kể cho chúng ta nghe về thời niên thiếu của ngài. Đầu tiên,Rinpoche ở tại tu viện Thami, về sau tại Rolwaling, Nepal và cuối cùng đi đếnTây tạng, ở tu viện của Doma Geshe Rinpoche xứ Pagri. Lawudo Lama là mộthànhgiả cư sĩ thuộc truyền thống Nyingma, trái lại khi Lama Zopa Rinpoche đến ở tuviện Domo Geshe, Rinpoche lần đầu tiếp xúc với truyền thống Gelug và trởthànhmột tu sĩ. Vị Hộ Pháp ở tu viện cũng xác nhận Rinpoche là một Lama tái sinh vàđã cho những chỉ giáo để nuôi dạy ngài.

Sau ba năm ởPagri, Rinpoche quyết định đi đến tu viện Sera, một trong những trường đại họcPhật giáo nổi tiếng của Gelug ở gần Lhasa để tiếp tục tu học. Tuy nhiên vị Hộ Phápbất ngờ khuyên Rinpoche đừng đi và nên ẩn tu thiền định.

Như Rinpoche kểlại, khi nghe tin người Trung Hoa sắp đến vùng Pagri, Rinpoche bỏđi đến nước Bhutan rồi sang Ấn Độ, tới Buxa Duar ở miền Tây Bengal. Rinpoche ởlại đây tám năm, tiếp tục tu học với hàng trăm Lama, các tăng, và ni sư di cưsang, sống trong một trại tập trung của người Anh lập nên trước đây.

Chính trong lúcnày, Rinpoche được Lama Thubten Yeshe thuộc Tu viện Sera, quan tâm chăm sóc vàtừ đó Rinpoche luôn luôn là đệ tử tâm huyết cho đến khi Lama Yeshe mất vào năm1984. Khi Lama Yeshe mất, Rinpoche đã nói: “Lama Yeshe đối với tôi còn hơn mộtngười cha, hơn một người mẹ”, “Lama Yeshe đã chăm sóc tôi như gà mẹ dùngmỏ mớmthức ăn cho con”.

Ròng rã suốthai mươi năm sau đó, hai vị Lama này đã có những tác động rất lớn lao đếnthế giới phương tây, thu hút hàng ngàn đệ tử nhờ vào năng lực giảng dạy cũngnhư lòng từ bi bao la; các ngài miệt mài họat động vì lợi ích người khác.

Năm1965 khiRinpoche bị đau phổi đang điều dưỡng ở Darjeeling,hai Lama đã gặp Zina Rachevsky, đệ tử đầu tiên của họ từ Mỹ đến. Là con gái mộtnhà quí tộc Ukraina trốn sang Pháp trong thời cách mạng Nga; cô Zina bắtđầunhận sự giảng dạy từ Lama Yeshe và Rinpoche với vốn liếng tiếng Anh mới học,làm thông dịch cho cô ta.Từ đó về sau, cả hai Lama đã đặc biệt dạy Pháp cho cácđệ tử phương Tây bằng tiếng Anh.

Vào năm 1968,lúc đó Zina đã xuất gia, họ cùng chuyển tới Nepal. Và chính ở Nepal sự nốikết của hai vị Lama với các đệ tử phương Tây bắt đầu phát triển mạnh. Trướctiên, họ ở Baudhanath ngay ngoài thành Kathmandu,nơi có một cái tháp Phật cổ. Theo như Rinpoche kể lại “mỗi ngày từ cửa sổ, LamaYeshe đưa mắt nhìn ra xa tới ngọn đồi phía bắc, bên kia những đám ruộng bậcthang dưới thung lũng. Ngài dường như bị ngọn đồi thu hút và vào một ngày nọchúng tôi ra khỏi nhà đi đến tận ngọn đồi đó để xem xét. Đó là đồi Kopan”.

Đồi Kopan trướckia là nơi ở của nhà chiêm tinh của Vua Nepal, và năm 1969 hai vị Lama dời đếnđó ở. Năm sau, nhận lời mời của thân quyến, Rinpoche trở về thăm Solu Khumbu vàtrong thời gian này, người con trai của Lawudo Lama trao lại cho Rinpoche hangđộng Lawudo cùng các đồ dùng trước đây của cha mình. Cũng chính trong thời giannày, Rinpoche mới hoàn thành được tâm nguyện của Lawudo Lama là lậpmột tu viện cho con em trong vùng. Rinpoche đặt tên ngôi trường là “Trungtâm Mount Everest”.

Năm 1971,Rinpoche ban bài giảng đầu tiên cho một nhóm mười hai đệ tử phương Tây –mộtbài giảng sâu sắc về thiền định và triết lý Phật giáo. Chính lần giảng dạy đầu tiênnày mà sau đó đã trở thành sự kiện mang tính thông lệ hàng năm và thu hút hàngtrăm người tham dự từ nhiều nơi trên thế giới.

Chán ngán xuhướng tôn sùng vật chất, thiếu thốn một điều gì có thể phù hợp cho nhữngkhaokhát nội tâm, những người phương Tây đã tìm đến đây và đã cảm xúc sâu xabởi nhữngphương pháp của Phật giáo Đại thừa tràn đầy lòng từ bi và minh triết, thựctiễn. Đó không phải là những ngôn từ trống rỗng mà là một truyền thống giáo lývà những thực hành thiền định sống động, một dòng truyền thừa từ thầy sang tròkhông gián đoạn, xuất phát từ Đức Phật truyền cho tới ngày nay. Các phương phápđó có hiệu quả rõ rệt, lấy bằng chứng cụ thể từ việc sống cùng với các Lama,lắng nghe họ giảng, cũng như làm theo những lời chỉ dạy dành riêng cho mình hayđể ý tới những hành động của các Lama khi ở cùng người khác. Đây là những phươngpháp thể hiện rất sống động về sự nhẫn nại, ưu ái, hài hước, uyên bác, hoan hỉ,tràn đầy lòng thương yêu.

Đáp lại yêu cầucủa các đệ tử phương Tây mỗi lúc một nhiều, các Lama đã đi phương Tây lần đầuvào năm 1974. Họ đến nước Mỹ, Úc, New Zealand và chặng dừng chân đầu tiên là ở New York. Rinpoche nói:“Chuyến đi không gây ngạc nhiên cho tôi lắm vì tôi đã không thấy lạ đối vớinhững nơi ấy nhờ vào việc học tiếng Anh từ tạp chí Times, và gặp nhiều ngườiphương Tây trẻ có, già có, nghe họ nói về kinh nghiệm sống của họ ở đó”.

Sau các chuyếnđi của hai Lama, các đệ tử ở nhiều quốc gia bắt đầu thành lập các trung tâmgiảng Pháp và Thiền định, và vào năm 1975 khi mạng lưới các trung tâm này đủlớn mạnh, Lama Yeshe quyết định đặt tên cho hệ thống này là Tổ chức Bảo tồnTruyền thống Phật giáo Đại thừa (viết tắt FPMT). Kopan là đầu mối của tổchứcnày. Mỗi năm Rinpoche mở lớp giảng được gọi là “Khóa giảng tháng mười một”. Số lượngtrung tâm tăng không ngừng, và hàng năm các Lama từ Kopan đi đến cáctrung tâm trên thế giới, đáp ứng những lời mời thỉnh giảng dạy càng lúc càngtăng.

Giờ đây “Trungtâm Mount Everest” đã dời từ núi xuống thung lũng Kathmandu ở Kopan, cơ sở nàytiếp tục mở rộng thêm để phục vụ việc tu tập cho người Sherpas, Manangpas,Tsumpas và cho nhiều người khác nữa ở Nepal cũng như cho những người Tâytạng.

Năm 1973 ZinaRachevsky bị bệnh và chết giữa lúc đang ẩn tu thiền định. Theo như Rinpochenói, có những dấu hiệu lúc Zina mất cho thấy ni sư đã thành tựu những chứng ngộ tâm linh.

Một năm sau,khi về thăm lại hang động Lawudo, Rinpoche bắt gặp cuốn sách giáo lý mà nó đượclàm nền tảng cho tác phẩm này. Cuốn sách đó đã khiến Rinpoche nói rằng chỉ saukhi đọc nó, Rinpoche mới tìm ra được “phương cách tu tập Pháp”.

Nội dung cuốnsách như thế nào mà khiến Rinpoche, một hành giảvĩ đại, đã nói như vậy? NhưRinpoche có giải thích, Khai mở Cánh cửa Pháp (tên cuốn sách-ND) là “thực hànhđầu tiên bạn phải áp dụng nếu bạn muốn tu tập Pháp”.

Như Rinpochexác định ngay từ đầu và cũng như trong suốt tác phẩm này, điểm chủ yếu là: mộtthực hành được coi là tu tập tâm linh hay không, không phải được xác định bằng hìnhthức tu tập như Thiền định, cầu nguyện hay tụng kinh, trì chú mà phảiđược xác định bằng động cơ (tâm nguyện) muốn tu tập. Rinpoche chỉ rõ cáigọi làhoạt động tâm linh có thể không phải là hành động tu tập Pháp, nói cách khác,nó không đem tới một quả vịû thiện hạnh nếu nó được thúc đẩy bởi ham muốn, gắnvới những thành đạt tầm thường của đời sống thế tục này.

Ngược lại ngaycả cái gọi là một hoạt động thế tục có thể sẽ là sự tu tập Pháp nếu nó đượcthúc đẩy bởi một động cơ vì mục tiêu lớn rộng hơn, lâu dài hơn.

Theo quan điểmcủa Phật giáo Đại thừa, động cơ của một hành động được coi lớn nhất là ước muốnthành tựu giác ngộ để dẫn dắt người khác đạt tới trí tuệ và đại bi tối thượng.Tiêu điểm này là độc nhất vô nhị của Đại thừa, con đường của các Bồ Tát –cácvị có được tâm giác ngộ, bồ đề tâm không cần dụng công (mặc nhiên tự phát) ;nói cách khác, một động cơ Đại thừa tự nhiên và liên tục tự phát. Lamrim–đường đạo từng bước đưa tới giác ngộ – đã vạch rõ những phương pháp khácnhauđể thành tựu bồ đề tâm. Giáo lý này bao gồm những phép tu từng bước, rúttừ cáclời dạy của Đức Phật, lần đầu tiên được Lama Atisha vĩ đại giảng dạy ở Tây tạngvào thế kỷ mười một.

Một phương pháprất hữu hiệu khác nữa để phát triển bồ đề tâm là làm theo một loạt các lời dạyvà thiền định, được gọi là chuyển hóa suy nghĩ hay luyện tâm (tiếng Tạng: lo-jong).Phương pháp này đặc biệt nhấn mạnh sự tu tập trao đổi mình với người, nói cáchkhác, yêu thương chăm sóc người khác thay vì nuông chiều bản thân mình.

Nói chung, hànhgiả học sử dụng từng giây phút của cuộc sống – dù đang được sung sướng hay bấthạnh – để phá hủy chướng ngại lớn nhất của bồ đề tâm, đó là thói quen chỉ biếtcó mình, chỉ biết lo cho mình.

Trong tác phẩmGiải thoát trong Lòng Bàn tay, Pabongka Dechen Nyingpo giải thích rằng:

Phép chuyểnhóa suy nghĩ (lo-jong) có thể xua tan bóng tối của vị kỷ (nuông chiều mình –ND), giống như một tia sáng có thể xua tan đêm đen. Nó có thể trừ khử căn bệnhvị kỷ giống như thảo dược có thể trị lành bệnh tật. Trong thời đại ngàynay khi năm thứ suy đồi đang rất phổ biến và các phép tu khác không hiệuquả thì phép luyện tâm này (lo jong) sẽ giúp được cho bạn và bạn sẽ không bịcác nghịch cảnh gây trở ngại. Phép tu này có tác dụng rất to lớn.(trang 588-589)

Phép luyện tâmnày được dạy đầu tiên vào thế kỷ thứ tám bởi Shantideva, vị đạo sư Đại thừa ởẤn Độ; ngài khuyên các hành giả du già thực hành phép tu tập này một cách bí mậtbởi vì, như Pabongka Dechen Nyingpo nói, chúng không “làm hài lòng một bình chứakhông thích hợp”.

Chính Đại sưAtisha đã đem giáo lý này đến Tây tạng và bí mật trao truyền cho Dromtonpa, đệtử ruột của ngài. Và từ đó bắt đầu giòng truyền thừa Kadampa vĩ đại gồm các vị dugià nổi tiếng trong phép tu tập chuyển hóa suy nghĩ (lo-jong). Và ngày nay cácdu già Đại thừa áp dụng phép tu tập này trong các khóa thiền chính.

Luận giảng Khaimở Cánh cửa Pháp thuộc truyền thống Kadampa này. Cuốn sách chủ yếu nhấnmạnh đến nhược điểm của sự ham muốn, đến vô thường và cái chết. Những điều này là“những thực hành đầu tiên nếu bạn muốn tu tập Pháp”, bởi vì, thực tế mà nói,một khi thấy được rằng liền sau ham muốn có nhân của đau khổ, bạn mới có khảnăng tu tập và cuối cùng bạn mới có thể hoán đổi mình với người khác để pháttriển bồ đề tâm.

Với cuốn sách“Cánh cửa Mãn nguyện” này, Lama Zopa Rinpoche đã sử dụng những lý lẽ mạnh mẽ,xác thực, nêu ra cho người đọc thấy rằng, bằng việc thực hành những phương phápnày và bằng sự nhận biết không có cái tôi để nuông chiều, chúng ta có thể pháthiện được sự mãn nguyện và sự hạnh phúc của mình ỏ mức sâu sắc nhất, tứclà sựgiác ngộ, và từ đó chúng ta có thể dẫn dắt người khác đạt tới trạng tháigiácngộ viên mãn.

Đây làlời khuyên tâm huyết, cốt lõi trong những bài giảng của Rinpoche từ khi ngàiban cho khóa thiền định đầu tiên năm 1971. Rinpoche là một Kadampa trongthờihiện đại. Ngài là một tấm gương điển hình hoàn hảo về những lời giảng màngàiđã dạy và ngài đã không ngừng yêu thương chăm sóc người khác hơn là bản thânmình.

Từ khi ngườithầy kính yêu của ngài là Lama Yeshe qua đời vào năm 1984, Lama Zopa Rinpochelà vị Lãnh đạo Tinh thần duy nhất của FPMT. Tổ chức này tiếp tục phát triển ởnhiều nước, có hơn bảy mươi trung tâm thiền định, nhập thất, chữa bệnh cũng nhưnhững tu viện, nhà xuất bản và các hoạt động khác nữa trên mười bảy quốcgia.

Kopan đang pháttriển mạnh. Trung tâm Mount Everest giờ đây lànhà của hơn 250 tăng ni đang theo học giáo lý Phật theo cách thức tu việntruyền thống.

Rinpoche khôngngừng đi nhiều nơi trong thế giới (mandala) của Ngài, giảng dạy và dẫn dắt hàngngàn đệ tử. Đặc biệt nhất trong số các đệ tử mà Rinpoche đang dẫn dắt cóLamaTenzin Osel Rinpoche, sinh năm 1985 ở Tây Ban Nha, được đức H.H.Dalai Lamachính thức thừa nhận là vị tái sinh của Lama Thubten Yeshe. Giờ đây đến lượtLama Zopa là “còn hơn một người cha, hơn một người mẹ”. Rinpoche chăm lodạy dỗvị Lama trẻ này từng giây từng phút, chuẩn bị cho Lama trẻ này có thể đảm đươngmột khối lượng rất lớn các hoạt động Phật Pháp với tư cách là Lama Yeshe.

Chúng tôi chânthành biết ơn Merry Colony, Alfred Leyens, Connie Miller, Paula Chichester vàRoger Munro đã đóng góp cho cuốn sách này được xuất bản. Xin cầu nguyện chonhững ai đọc Cánh cửa Mãn nguyện nhanh chóng nhận ra tiềm năng tự tại, đạt tới hạnhphúc tối thượng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6637)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8026)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5784)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4801)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5476)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6059)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6461)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5163)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4809)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4757)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]