Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Tại sao phải mở trường Phật học

02/01/201107:27(Xem: 10109)
11. Tại sao phải mở trường Phật học

11. Tại sao phải mở trường Phật học

Các trường Cơ bản Phật học mở ra là cốt để đào tạo các vị Tăng Ni trẻ có đủ trình độ học vấn cơ bản và một sự tu hành vững chắc. Đến khi lớn lên làm một vị Tăng, vị Ni cũng cómột trình độ vững chắc như vậy để hoằng dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh.

Chúng đệ tử của Phật có bốn, là Tăng, Ni, cư sĩ Nam và cư sĩ Nữ. Như vậy Ni ở vị trí thứ hai trong hàng đệ tử bốn chúng của Phật. Nên đối với Phật pháp, đối với bản hoài của Đức Phật, là người đệ tử luôn luôn phải tâm niệm thực hiện cho được bản hoài của Ngài để chứng minh cho việc làm đệ tử. Được như vậy thật là mộtđiều hết sức sung sướng. Nhưng làm sao để được Phật chứng minh? Chính Đức Phật cũng đã từng dạy: "Ở gần bên Ta mà không thực hành theo lời dạycủa Ta thì như cách xa Ta ngàn dặm. Trái lại, dù ở xa Ta nhưng thực hành theo lời dạy của Ta thì cũng như ở gần hai bên Ta". Ngày hôm nay chúng ta đã cách Phật rất xa, thuộc về đời mạt pháp. Tuy cách xa Phật nhưng chúng ta còn có đủ thiện duyên để tin Phật, học hiểu giáo lý của Phật, gặp thầy, gặp bạn để trau giồi đức hạnh, để tu tập, để tiến lên con đường giải thoát của Phật, thì đó là một điều hạnh phúc, rất là may mắn cho chúng ta.

Như Đức Phật đã dạy, tất cả mọi chúng sanh còn đang ở trong vòng đau khổ. Nhưng sự đau khổ đó có từ đâu có và nguyên nhân của sự đau khổ đó thế nào? Thì chính Đức Phật dạy: Nguyên nhân của sự đau khổ đó, nguồn gốc không ở đâu xa lạ hết, mà chínhngay trong bản thân của mỗi người. Trong bản thân của mỗi người tùy theo sự nhận thức như thế nào thì cuộc đời nó sẽ hiện ra như thế đó. Nênnói cuộc đời an lạc hay cuộc đời đau khổ, cái đau khổ an lạc bên ngoài có cái thủ, có cái duyên, nhưng chính cái an lạc, cái đau khổ bắt gốc từsự nhận thức của con người. Nếu sự nhận thức đó mang cái chấp ngã điên đảo, tham lam, ích kỷ, thì sự nhận thức đó sẽ đưa đến sự đau khổ. Ngược lại, một sự nhân thức sáng suốt, nhìn sự vật một cách như thật, như Đức Phật đã từng dạy: Là vô thường, vô ngã. Nhận thức đúng như vậy, không sinh ngã chấp, không đắm trước, thì đó là một nhận thức đúng đắn mang lại sự an lạc. Nếu không nhận thức đúng đắn thì sinh ra đau khổ. Vậy cáigì khổ? Cái cây nó không khổ, chén cơm nó không khổ, hòn núi nó không khổ, con sông nó không khổ, cái nhà nó không khổ, cục vàng nó không khổ,những thứ đó nó không khổ.

Cục vàng dù có thể trong rương haycó rớt xuống khỏi bùn nó không khổ. Hòn núi có còn đó hay có tiêu đi hòn núi cũng không khổ, cái nhà có còn đó hay có cháy đi cái nhà đó cũngkhông khổ. Vậy ai khổ? Không phải cái nhà, không phải cục vàng mà cái khổ đó là con người khổ. Người có cục vàng mang cục vàng, đắm trước cục vàng, mất cục vàng thì đau khổ. Đó là sự đau khổ của trong tâm thức, sự đau khổ của sự nhận thức, chứ không phải sự đau khổ của cục vàng. Ta thường nói mất cục vàng cho nên ta đau khổ, có cục vàng cho nên ta an vui. Đó là một lời nói không xứng đáng, không đúng cách cho lắm. Bởi vì có người có vàng nhưng họ lại không vui, nhưng cũng có những người khôngcó vàng nhưng họ lại không khổ. Như vậy cục vàng cũng không phải là đaukhổ, cũng không phải là an vui. Mà đau khổ hay an vui chính tự nơi con người.

Ngày xưa, ở bên Trung Hoa có Hứa Do và Sào Phủ, hai ông này là hai nhà ẩn sĩ, bỏ hết cả danh lợi cả thế gian để đi ở ẩn. Thời đó vua Nghiêu cũng là một vị vua hiền, nghe Hứa Dolà một vị hiền sĩ, cho người đi mời Hứa Do về. Hứa Do nghe được vua chomời về nhưng cũng không biết vua nói chuyện gì. Khi vào gặp thì vua Nghiêu liền nói: Tôi nghe ngài là một bậc hiền sĩ, đức hạnh hơn tôi. Xinngài ở lại để ngài cai trị đất nước này thay tôi, đem lại sự an lạc thái bình cho thiên hạ, chứ tôi không đủ đức độ như ngài. Nghe xong, ôngHứa Do bịt tai bỏ đi. Bỏ đi và quay xuống sông rửa tai và lẩm bẩm nói: Xưa nay chưa từng nghe câu nói đó, nên nghe rồi nó chát chúa và bẩn thỉulỗ tai quá. Cho nên ông phải xuống sông rửa tai. Cùng lúc ấy Sào Phủ dẫn trâu đi uống nước, thấy Hứa Do đang rửa tai như vậy liền hỏi: Tại sao anh xuống đây rửa tai? Ông thuật lại chuyện vua Nghiêu mời ông ra trị nước, làm cho khó chịu quá nên phải xuống đây rửa tai. Nghe vậy, ôngSào Phủ liền dắt trâu đi chỗ khác, ông không cho trâu uống nước chỗ đó nữa vì sợ nhớp tai trâu của ông.

Câu chuyện đó là một điển hình để chứng tỏ rằng ngôi vị đó là ngôi vị nhiều người ham. Có được ngôi vị đó thì hết sức sung sướng, nhưng khi mất ngôi vị đó cũng rất đau buồn. Có người coi ngôi vị đó là một chướng ngại và triền phược, chỉ gây đau khổ cho mình mà thôi. Chứ không thêm không bớt gì hơn.

Thế cho biết rằng: Cái đau khổ hayan lạc là xuất phát từ cái tâm. Nên Đức Phật nói: Nhất thiết duy tâm tạo, không có sự vật gì gọi là chân thật hết. Những cái hiện tướng hiện ra trước mắt ta đều do tâm chứng ta biến hiện. Nó không phải như thế mà tâm ta biến ra như thế. Đó là duy tâm, cũng gọi là duy thức. Như vậy tâmthức chính nơi bản thân ta, nên khổ vui cũng từ nơi bản thân ta. Do đó khi mê lầm thì đau khổ, giác ngộ thì an vui. Đó là chân lý sáng suốt mà Đức Phật đã dạy trên 2500 năm cho đến bây giờ vẫn là chân lý bất di bất dịch. Là đệ tử của Đức Phật, điều trước tiên chúng ta phải học là học điều đó, gạt bỏ những gì Phật nói đó là xấu xa, hẹp hòi, ích kỷ, xan tham, tật đố, cống cao, ngã mạn. Chẳng hạn như vô minh, Phật biểu bỏ đi đừng có nhận hắn vào trong ta. Tham lam, sân hận, kiêu mạn, tật đố...phải vứt bỏ đi, các con đừng mang những thứ đó vào trong con người làm chi cho khổ. Đức Phật dạy như vậy.

Ngày xưa có một vị Tỳ kheo đau rấtnặng không biết làm sao gặp Phật cho được, liền nhờ một vị Tỳ kheo khácthỉnh Phật tới cho ông ta gặp. Đến khi Phật tới thì ông Tỳ kheo đó lồm cồm ngồi dậy thì Phật bảo: Thôi thôi cứ nằm yên đó khỏi ngồi dậy. Phật mới hỏi rằng: Lâu nay ông có quán vô thường không? Dạ có, vị Tỳ kheo đáp. Có quán vô ngã không? Dạ có. Có quán ngũ uẩn giai không? Dạ có. Vậyông có điều gì mà không vừa ý ở nơi ta không? Dạ không, con không có điều gì không ưa ý nơi Đức Thế Tôn hết. Vậy có điều gì ông không thỏa mãn không? Dạ có. Phật hỏi điều gì thế? Vị Tỳ kheo nói: Dạ, con mong mỏiđược thấy Đức Thế Tôn nhưng vì con mang thân bệnh quá khổ nên con khônggặp được Thế Tôn, nên con không cảm thấy thỏa mãn. Đức Phật dạy: Thân Ta cũng là cái thân vô thường vô ngã, ngươi thấy cái chi thân ô uế này? Hễ ngươi thấy pháp tức là thấy Ta. Thấy Ta tức là thấy pháp. Phật dạy như vậy.

Nên có một vị thiền sư hỏi một người đi lễ Phật về câu hỏi như thế này: Này ông bạn, ông đi đâu về? Ôngta trả lời: Tôi đi lễ Phật về. Vị thiền sư hỏi: Phật ở đâu? Ông ta trả lời: Trong chùa. Vị thiền sư liền nói: Đó là cục gỗ chứ đâu phải Phật. Ông ta hoảng hồn, hoang mang. Ông nghĩ là ông đã lễ lạy mấy năm nay, bâygiờ thiền sư này nói không phải Phật nên ông ta quay hỏi lại: Thế Phật ởđâu? Vị thiền sư liền nói: Phật ở trong chùa. Tại sao có chuyện ngược xuôi như vậy? Khi ông vào lễ Phật trở ra, vị thiền sư hỏi Phật ở đâu? Ông trả lời: Phật ở trong chùa, vị thiền sư không chấp nhận đó là Phật. Nhưng đến khi ông hỏi lại, vậy thì Phật ở đâu? Vị thiền sư đó trả lời: Phật ở trong chùa! Vị thiền sư nói như vậy là nghĩa gì? Đó là một bài học để nhắc nhở không phải cho người lạy lễ Phật, mà cũng chính là nhắc nhở cho tất cả chúng ta. Nhắc nhở chúng ta bằng cách lễ Phật như thế nào? Lễ Phật như thế nào để thấy Phật? Lễ Phật như thế nào là không thấyPhật. Có nghĩa: Phật bảo chúng ta làm tất cả những gì Phật bảo làm, cònnhững gì Ngài không bảo, chúng ta không làm. Lễ Phật như thế là thấy Phật ở trước mắt, là sự lễ Phật để được thấy Phật.

Nói tóm lại, tinh thần của Đức Phật dạy chúng ta không gì khác hơn là cố nhắc nhở cho chúng ta, phải sửa cái nhìn của mình như thế nào để nhìn theo đúng với cái nhìn của ĐứcPhật. Thấy thế nào đúng theo cái thấy của Đức Phật. Nói thế nào đúng theo lời nói của Đức Phật, làm thế nào đúng theo lời dạy của Đức Phật, đó là điều Đức Phật luôn luôn nhắc nhở chúng ta.

Vậy mở trường, dạy học cho học Tăng học Ni không có gì cao quí hơn là trao truyền lời dạy cao cả, sáng ngời đó của Đức Phật đến cho các vị. Nếu các vị thành tâm cần mẫn, siêngnăng học hỏi, tu trì, không những chỉ nghe mà còn phải suy nghĩ, chẳng những phải suy nghĩ mà còn tu tập - văn, tư, tu đầy đủ trong mỗi câu kinh, trong mỗi bài học. Có như vậy các vị mới có thể tiến gần với lời dạy của Đức Phật, gạt bỏ những cái nhìn sai quấy, hẹp hòi, ích kỷ, ngã chấp của mình để có được một cái nhìn sáng suốt và giác ngộ. Đó là tôn chỉ để Giáo hội mở trường Cơ bản.

Vậy tôi mong các vị thấu hiểu điềuđó mà vâng lời các vị giáo thọ, các vị giáo sư. Ngoài ra, các vị giáo sư cũng cố gắng tìm tòi học hỏi thêm ở các vị cao minh khác, trong sách vở khác, học rất kỹ, học thật sâu để cho lời giáo lý của Phật được thấm nhuần. Được như vậy thì giáo lý của Đức Phật một ngày nào đó không phải là giáo lý của Phật nữa mà chính là giáo lý của mình. Học như thế nào đểcho giáo lý của Phật trở thành giáo lý của mình. Nếu là giáo lý của Phật thì có khi ta nhớ, có khi ta quên. Nhưng khi nó đã trở thành giáo lý của mình rồi thì không bao giờ mình quên hết. Khi mình đã trở thành giáo lý và giáo lý đã trở thành mình thì mình và giáo lý tuy hai mà một.Được như thế mới đạt được kết quả thành tựu viên mãn.

Hôm nay tôi tâm sự với các vị như vậy để các vị thấy rõ mục đích tôn chỉ của Trường Cơ bản mở ra là để dạycho Tăng Ni học cái gì? Làm cái gì để các vị có cách đào tạo giúp cho các Tăng Ni trên bước đường tu học. Mong rằng sau này trở nên một vị Tăng, vị Ni có đủ tài đức giúp cho việc hoằng dương Chánh pháp, góp sức với các vị khác trong tỉnh mà nói rộng ra là góp sức với Giáo hội để duytrì Chánh pháp, làm cho Chánh pháp cửu trụ thế gian lâu bền như chúng ta hằng mong muốn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2015(Xem: 9043)
Bàn về lòng vị tha - một ấn phẩm dày 900 trang do Matthieu Ricard - nhà khoa học, nhà sư người Pháp viết và được Nhà xuất bản Nil tổ chức ấn hành. Bài phỏng vấn sau đây được thực hiện bởi Mạng nghiên cứu Cles.com với chính tác giả.
14/05/2015(Xem: 6838)
Xin đại chúng giữ gìn trang nghiêm cho tâm được yên lắng để nghe pháp thoại. Quý vị cùng với tôi thực tập, theo dõi ba hơi thở vào và ra. Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào; Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra.
14/05/2015(Xem: 9979)
“Để có hạnh phúc chân thật, bạn phải chuyển hóa những năng lượng tiêu cực do chính bản năng của bạn tạo ra, phải tìm lại bản chất chân thật của hợp thể con người bạn mà đất trời đã trao tặng”, thầy Minh Niệm, tác giả cuốn Hiểu về trái tim, cộng tác viên của Giác Ngộ từ nhiều năm nay, mở đầu cuộc trò chuyện với Giác Ngộ khi phóng viên hỏi về “hạnh phúc chân thật” mà thầy đề cập trong sách. Tiếp tục cuộc trò chuyện, ĐĐ.Thích Minh Niệm cắt nghĩa thêm:
08/05/2015(Xem: 12880)
Lúc mọi người muốn ông ta chứng minh lời mình nói là đúng, ông ta liền cao giọng nói như thách thức Đức Phật: “Đức Phật quả thực Người có linh, hãy xuống đây, trước mặt rất đông mọi người hãy ban phước hay giết chết tôi đi, thì tôi sẽ tin là người thực sự có tồn tại”, ông ta cố ý lặng yên chờ mấy phút nữa, đương nhiên là Đức Phật không xuống để ban phước hay giết chết ông ta. Ông ta liền nhìn mọi người xung quanh và nói “mọi người thấy rồi đấy, Đức Phật vốn dĩ là không tồn tại”.
07/05/2015(Xem: 8659)
Steve Jobs (1955-2011), người sáng lập Hãng Apple Computer, đã có lúc tu tại Ấn Độ, trong bài nói chuyện với các sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Stanford năm 2005, kể ba câu chuyện như là lời nhắn nhủ thân tình với những sinh viên tốt nghiệp, sắp bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời:
07/05/2015(Xem: 7370)
Tâm linh là sự kiện phi vật thể, đối lập với duy vật. Hầu hết các tôn giáo đều mang tính chất tâm linh; tín ngưỡng tâm linh của các tôn giáo không thuần nhất, tùy trình độ, căn cơ và khuynh hướng của mỗi loại tín ngưỡng mà có chánh tín và tà tín.
07/05/2015(Xem: 13756)
(Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn Độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.) - Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng giáo hội của Đức Tôn Sư trong sạch, quý báu, cao thượng lắm phải chăng? - Tâu, vâng. - Trong giáo hội ấy, tất cả Tăng chúng và Ni chúng đều là người đã chứng đắc các quả vị thanh tịnh cả chăng?
06/05/2015(Xem: 8504)
Đời sống là một chuỗi những câu chuyện xen lẫn nhau, không phải là những khái niệm. Khái niệm thì khác xa với sự thật. Do vậy, một câu chuyện được kết cấu với tình tiết phong phú và có ý nghĩa thì gần gũi với đời sống thực tế. Đó là lý do tại sao chúng ta dễ dàng liên hệ với đời sống qua các câu chuyện hơn là những lý thuyết trừu tượng. Và đó cũng là lý do mà thầy Ajahn Brahm - tu sĩ người Anh, Tu viện trưởng rừng thiền Bodhinyana và là Giám đốc hội Phật học Tây Úc - chọn cách giảng dạy, trình bày pháp thông qua những câu chuyện.
01/05/2015(Xem: 8694)
HỎI: Tôi vì học tập và công việc nên sống xa nhà, hiện đang ở trọ một mình. Gia đình tôi thờ Phật, trước đây mỗi ngày tôi đều tụng kinh, lạy Phật. Hiện nơi tôi ở trọ cách chùa rất xa, việc đến chùa lạy Phật hàng ngày rất khó khăn. Gần đây, tôi được người quen tặng một bức tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi vui lắm và mong được thờ Ngài trong phòng để tiện tụng niệm, lễ bái. Nhưng tôi rất băn khoăn vì phòng trọ rất nhỏ hẹp, bạn bè thường hay tới chơi, đôi khi có cả bạn trai của tôi đến nữa. Xin hỏi, tôi thờ Bồ-tát có trong phòng trọ có được không? Nếu được thì quy cách như thế nào để không phạm lỗi bất kính?
01/05/2015(Xem: 30284)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]