Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Mở trường giáo dục Tăng Ni trẻ

02/01/201107:26(Xem: 6524)
10. Mở trường giáo dục Tăng Ni trẻ

10. Mở trường giáo dục Tăng Ni trẻ

Trước hết tôi xin chào mừng quí vị đã hoan hỷ nhận lời mời của chúng tôi đến dự buổi lễ hôm nay. Sự hiện diện của quí vị làm cho buổi lễ được thêm phần ý nghĩa long trọng và giúp chúng tôi vững tin để hoàn thành công việc giáo dục.

Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc họp tại chùa Quán Sứ để thành lập Giáo hội Phật giáoViệt Nam cuối năm 1981. Khi Đại hội truy cử Hòa thượng Đức Nhuận 85 tuổi lên ngôi Pháp Chủ của Giáo hội, Hòa thượng có đưa ra 3 đề nghị:

1. Cho phép Phật giáo được mở trường Phật học để đào tạo Tăng tài. Trước tiên là tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh.

2. Phật giáo được phép nuôi chúng điệu để có người thừa kế.

3. Tín đồ Phật giáo được tự do đi lễ chùa nghe giảng.

Ba đề nghị này được Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh và được Cụ Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ chấp thuận.

Từ đó các tỉnh tiếp tục mở trường, đến nay trên cả nước đã có hai trường Cao Cấp Phật học và 22 trường Cơ bản Phật học. Ngay tại miền Bắc đã mấy chục năm qua không có trường Phật học thì nay cũng đã mở được 5 trường. Tại miền Nam có 17 trường. Những tỉnh như Long An, Mỹ Tho, Bà Rịa, Vũng Tàu, Lâm Đồngxưa nay chưa có trường thì nay cũng đã có trường. Thế mà ở Huế chúng tahôm nay mới bắt đầu xoay sở được Phật sự này. Nếu so với các tỉnh khác thì Huế bị lạc hậu hơn 10 năm. Đây là một điều đã mất đi thiện cảm trọngnể của các nơi khác dành cho Phật giáo Huế từ hơn nửa thế kỷ qua.

Thế nhưng hình thành cho được buổi lễ Khai giảng hôm nay cũng không phải dễ, nếu không có sự kiên trì nhẫn nại của Ban Trị Sự và nhiều vị khác khuyến khích, ủng hộ, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền thì tưởng rằng buổilễ này không có được.

Vậy chúng tôi xin chân thành cám ơn quí vị. Cầu chúc quí vị luôn được an lành. Và mong được quí vị luôn giúp đỡ liên tục cho chúng tôi, để chúng tôi hoàn thànhnhiệm vụ cao cả là đào tạo nên những sứ giả tốt cho đạo mà cũng là người bạn lành chân thật trong đời, trong hướng đi lên xây dựng cuộc sống an lành hạnh phúc.

Giờ đây tôi xin phép quí vị nói với học Tăng học Ni.

Các học Tăng ni thân mến,

Các con nên lấy buổi hôm nay làm vui mừng, Thầy cho rằng đây là một cơ hội tốt để cho các con bước vào con đường học tập có qui cũ. Nhờ sự học tập có qui cũ, các con mới hiểu Đức Phật như thế nào, hiểu giáo lý đạo Phật như thế nào, rồi mới có thể tu hành đứng đắn theo đạo Phật. Mà có tu hành đứng đắn theo đạo Phật mới trở thành một người xuất gia có ích lợi cho chính mình, có ích lợi cho đạo. Người xưa có nói: Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là què. Mù và què thì không đi đến đâu được cả. Cho nên học và tu là hai điều song song, luôn luôn phải trau giồi tiến bộ.

Đối với đạo Phật chúng ta, học và tu gắn liền với nhau, chứ không phải ngày hôm nay học để ngày mai mới tu, chính trong lúc học cũng là tu. Vậy thì các con phảihiểu: Tu để mà học là phải song hành. Bởi bao lời dạy của đức Phật đều là những lời răn nhắc để khai mở tâm trí cho chúng ta trên con đường giải thoát, chứ không phải chỉ đưa ra những kiến thức suông, kiến thức khoa học; không tương quan gì đối với nhân phẩm, đạo đức, đời sống của con người. Vậy nên các học Tăng, học Ni phải coi đây là một cơ hội tốt, không nên lơ là bỏ qua, mà nên đem hết tâm trí của mình, tận lực học hỏinhững lời dạy của Thầy sắp truyền trao cho mình hầu một ngày một xa cáccon sẽ có một căn bản giáo lý và từ đó các con mới có thể phát triển lên được. Trong tuổi thơ ấu là tuổi ngọc nầy, nếu các con lơ là bỏ qua thì sau này khó có thời gian học lại được, khi đó các con có hối tiếc cũng không còn kịp nữa.

Thầy mong các con cố gắng dù gặp khó khăn gì, trở ngại gì cũng không nên lùi bước trên conđường học tập của mình. Nếu các con còn trẻ mà không học thì sẽ mù mịt trong tương lai khi làm Thầy mà câu chuyện Thầy sắp kể đây là một ví dụ.

Ngày xưa có một chú tiểu ngày ngày cứ ngâm nga một bài kệ rằng: "Nhơn sanh bất tuế, bất kiến thủy lão hạc, bất sanh như nhất nhật nhi đắc kiến chi." Nghĩa là người sống trăm tuổi mà không thấy con hạc già thì chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy được con hạc già.

Một hôm đi ngang qua tịnh xá của vị bổn sư chú tiểu, ngài Ananda nghe được và hỏi: Này chú tiểu, bài kệ đó ai dạy cho con? Dạ, thầy con dạy cho con. Thầy con nói bài kệ đó chính Đức Phật truyền lại bài kệ này, tại sao ta là người đa văn, gần Phật suốt một đời thuyết giáo của Ngài, mà ta đâu có nghe cái bài kệ lạ lùng như thế, nó không có ý nghĩa gì cả, chắc là con đã đọc lộn rồi, để ta chỉ lại cho con đọc. Ngài mới dạy rằng: "Nhơn sanh bất tuế, bất kiến sanh diệt pháp, bất như sanh bất nhật, đắc kiến sanh diệt pháp." Nghĩa là: Người sống trăm tuổi mà không thấy được lẽ sống biến dịch vô thường của vũ trụ thì không bằng sống chỉ một ngày mà thấy được lẽ sống biến dịch vô thường của vũ trụ.

Con hãy đọc lại như thế cho đúng. Chú tiểu đọc lại theo lời ngài Ananda dạy. Khi ấy ông thầy bổn sư của chú tiểu nghe đọc như thế ông thấy trái tai, kêu học tròtới la, tại sao thầy đã dạy như kia, bây giờ con lại đọc như thế này. Vậy ai bảo con đọc như vậy, sai lời dạy của thầy như thế. Chú tiểu thưa rằng, chính ngài Ananda chỉ cho con học như thế. Ông thầy bổn sư nói: "Ồ, ngài Ananda đã già cả, lú lẫn rồi, ngài đâu có hiểu gì nữa đâu mà nói cho đúng. Cứ đọc y nguyên như cũ mà thầy đã dạy".

Than ôi! Khi làm tiểu mà đọc như thế, đến khi làm thầy cũng đọc như thế thì còn gì là Phật pháp. Cho nên ngày hôm nay nếu chúng ta không học, thì chúng ta cũng là một chú tiểu và cũng chỉ là một ông thầy dạy cho học trò đọc mộtcâu kệ vô nghĩa đó mà thôi. Khi làm một người xuất gia mà đọc một câu kệ vô nghĩa thì người đó giáo hóa ai được. Mà một người xuất gia tự mìnhkhông lợi mà cũng không lợi cho người khác thì thử hỏi đời sống của người xuất gia có ý nghĩa gì? Có đi đúng với hoài bảo của Phật là tự giác giác tha, tự lợi lợi tha hay không? Thế nên các con cố gắng học chotinh tấn. Dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng các con vẫn giữ như kiềng ba chân. Các con cố gắng mà học không được thay lòng đổi dạ gì cả. Đừng nghe kẻ xấu nói: "Học chi mà học, học chỉ làm công cụ, học tào lao", nhưthế là không phải hảo chí xuất gia, đừng nghe lầm như vậy. Các con có cơ hội thì phải học, còn những gì khác thì hãy để ra ngoài ta.

Muốn tiến bộ phải theo minh sư, muốn hiểu đạo phải học bậc Đạo sư, phải có bạn lành. Bạn lành là một nửa phần cho sự đắc đạo giải thoát cho chúng ta. Vậy trên bước đường tu học, ngoài minh sư ra, các con nên chọn bạn tốt mà chơi. Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy: "Nếu không gặp được người hơn mình, không gặp được người ngang mình để kết bạn, thì thà sống một mình còn hơn là kết bạn với người ngu". Kết bạn với người ngu là người tham lam, ích kỷ,hẹp hòi, biếng nhác và đọc những lời vô nghĩa như chú tiểu kể trên.

Thầy thấy rằng đâylà một cơ duyên rất tốt, các con khó mà có thể gặp lại được bởi vì các con nên biết, cái xứ Huế này đã lẹt đẹt, chậm thua người ta về việc mở trường Cơ bản Phật học nầy rồi. Cho nên ngày hôm nay có được cơ hội học tập thì phải dũng mãnh mà học, như voi xung trận, không nói tới nói lui,không nói qua nói lại, chỉ một đường mà tiến tới thôi.

Sau đây tôi xin có đôi lời tâm tình với các vị Giáo sư, các vị Giảng viên của trường.

Giáo dục là nền tảng của văn hóa văn minh. Văn hóa văn minh nhờ giáo dục mà có. Qua văn hóa văn minh người ta biết đến sự giáo dục của một đất nước đó như thế nào. Con người có văn hóa văn minh mới thành con người, nếu không có vănhóa văn minh thì cũng khó thành một con người cao quí đúng nghĩa của nó. Nhưng có được một sự giáo dục tốt đẹp phải nhờ thầy hay, tận tâm tậnlực với học trò, đem hết tâm tư của mình để trao truyền những điều hay lẽ phải cho học trò, vì không ai sanh ra đã biết, nhờ học mới biết, nhờ khốn cùng mà biết. Sanh nhi tri rất khó.

Nhưng làm sao học nếu không có thầy? Cho nên việc giáo dục, bậc thầy là ngôi sao sáng dẫn đường cho học trò. Ngôi sao sáng chừng nào thì học trò càng thấy sáng đường mà đi chừng nấy. Vì thế cho nên vị trí của một Giáo sư, Giảng sư là cao cả lắm. Người xưa đã nói: "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" (dầu chỉ dạy một chữ học trò cũng phải tôn trọng làm thầy). Bởi vì nửa chữ, một chữ cũng là tia lửa sáng để soi đường cho chúng ta đi ra khỏi chỗ tăm tối. Cao quí lắm thay.

Vì thế chúng tôi mong mỏi các vị Giáo sư, Giảng sư hãy cùng chung với chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ giáo dục để giúp cho các học Tăng học Ni càng ngày càng tiến bộ. Nếu một mai đây trên con đường đi đến trường, rủi có vị vấp phải cục đá bị thương hoặc vào lớp thiếu viên phấn thì mong các vị hoan hỷ, và không cho điều đó là quan trọng, mà thấy việc giáo dục giáo truyền kiến thức của mình, góp phần đào tạo lớp hậu lai mới là điều quantrọng, đó là một nhiệm vụ cao cả không ai gánh vác được ngoài các thầy.

Tiếp đến chúng tôi xin tâm sự với các vị Bổn sư của các học Tăng học Ni.

Thưa các vị bổn sư của các học Tăng học Ni,

Các vị cho các đệ tử của mình đến học ở đây không có nghĩa rằng các vị giao phó người đệ tử mình cho nhà trường, mà đồng thời các vị phải có bổn phận nhắc nhở đệtử của mình, khuyên răn đệ tử của mình từ việc học cho đến việc tu. Vì nếu một học Tăng hay học Ni nào đó làm điều không đúng, học nhác, chơi bời, hạnh kiểm yếu, thì cái đó nhà trường không hoàn toàn chịu trách nhiệm, mà nhà trường chỉ chịu trách nhiệm một phần, nhưng phần lớn là docác vị chịu lấy. Tôi mong mỏi các vị luôn luôn để tâm dìu dắt hàng đệ tử của mình để khỏi thua chúng kém bạn.

Nhân đây tôi cũng xin Ban Bảo trợ đôi điều.

Thưa quí vị trong thưa Ban Bảo trợ.

Nói gì thì nói, trường có được đứng vững hay không, lâu bền và phát triển tốt đẹp hay không cũng đều do sự Bảo trợ của các vị. Nếu sự bảo trợ yếu thì nhất định sự phát triển của trường cũng yếu. Nên tôi mong mỏi các vị cố gắng,tích cực, vui vẻ coi như đó là một công đức lớn để giúp chúng tôi hoàn thành sự giáo dục cho các Tăng ni. Muốn có một Tăng ni tốt trong tương lai thì hôm nay chúng ta phải ra công dạy dỗ, chăm sóc để sau này đáp ứng được cái bản hoài của Đức Phật là hoằng pháp lợi sanh, cứu khổ cho nhân quần và xã hội.

Tôi xin cám ơn và cầu chúc tất cả đều được an lạc.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2011(Xem: 6414)
Cho dù bạn chỉ có một giờ để sống, một phút để sống, mục đíchcủa cuộc đời vẫn là sống vì sự lợi lạc của người khác, với một trái timtốt lành, với lòng bi mẫn đối với người khác.
09/10/2011(Xem: 4425)
Tôi thích lang thang trên hè phố để ngắm nhìn những em bé đang tung tăng cắp sách đến trường. Những khu chợ đông vui mà trật tự, đường phố thì khang trang và sạch sẽ.
06/10/2011(Xem: 5963)
Ở đây một trong những người thầy vĩ đại của thời đại chúng ta đặc biệt nói chuyện cùng những người trẻ và trình bày một triết lý thực tế của sự giáo dục không liên quan gì đến những cống hiến hiện nay trong hầu hết những trường học và đại học của chúng ta. Krishnamurti phơi bày những gốc rễ của sợ hãi và loại bỏ những thói quen được thiết lập sâu thẳm của truyền thống, mô phỏng, và thành kiến.
04/10/2011(Xem: 5253)
Tiếp theo, chúng ta nói về sự bố thí. Phía trước tôi đã nói đến có một lần tôi ở trường học, hôm khánh thành toà lầu Học viện Thương nghiệp, tôi cũng tham gia buổi lễ khai mạc. Trong buổi lễ, nhà trường có mời một vị giáo thọ người Mỹ nổi tiếng của Học viện Thương nghiệp đến diễn giảng. Sau khi tôi nghe rồi, tôi có cảm khái rất sâu sắc. Bởi vì ngay lúc đó hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi, chúng tôi rất thân quen nhau, tôi liền cảm khái nói với hiểu trưởng, tôi cười đùa mà nói với ông rằng giáo trình của Học viện Thương nghiệp này tôi cũng có thể dạy.
02/10/2011(Xem: 6721)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
25/09/2011(Xem: 7407)
Chúng ta không cần đi đâu xa, ở ngay tại nhà nhìn qua trang báo hằng ngày cũng đủ cho chúng ta thấy những tệ nạn xã hội hiện nay như thế nào. Rượu chè, cướp bóc, cờ bạc, mãi dâm... xảy ra thường xuyên, nếu ta có thời giờ bỏ ra vài năm hay cả cuộc đời để thống kênhững sự kiện ấy cũng không thể nào hết được, vì thế mà các nhà báo chí không thất nghiệp, nay tường thuật tệ nạn này, mai báo cáo tệ hại khác...
25/09/2011(Xem: 7049)
Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vàongày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "CâuChuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôngiáo",(có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khilùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện ĐạiHọc Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấnđề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp nhữngngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêulên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôngiáo nói chung.
24/09/2011(Xem: 5347)
Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.
21/09/2011(Xem: 13665)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
15/09/2011(Xem: 5842)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng làđiều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567