Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

26/12/201017:32(Xem: 9224)
2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÍNH BẢN NHIÊN CỦA TÂM THỨC

 

Vìthế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo,và có thể biểu hiện ngay cả cho một chúng sinh, hàng trăm, hàng nghìn, và nhiềunữa mà hành giả có thể biểu hiện, trong những thân tướng khác nhau, khi có nhucầu cần đến, để hóa độ, để hướng dẫn từ hạnh phúc đến hạnh phúc. Giống như thế, rồi lần lần đưa mọi người đếnchấm dứt sự chết, tái sinh, và toàn bộ những rắc rối và đưa họ đến tâm thức tốithượng, tâm thức hiểu biết hoàn toàn.

Thếcho nên những lợi ích rộng lớn vô cùng như vậy mà chúng ta có thể cung ứng chomỗi chúng sinh, với sự giải thoát hoàn toàn, với tuệ trí, hiểu biết trọn vẹn,mà không có một chút si mê, chướng ngại nào cả, và năng lực toàn hảo để khai mởbất cứ sự hướng dẫn, bất cứ phương pháp nào thích ứng với họ để đem họ vàotrong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Rồi thì lòng bi mẫn vô hạn cho người khác,lòng bi mẫn không thể lường được cho mỗi chúng sinh, lòng bi mẫn nguyện ước mỗichúng sinh được giải thoát khỏi những rắc rối và nguyên nhân khổ đau và tự mìnhđể làm việc, để tự mình lãnh lấy trách nhiệm ấy, vì thể có lòng từ bi vô hạn,vào lúc ấy lòng từ bi, tâm thức được rèn luyện trong từ bi được hoàn thành,không có gì để phát triển thêm nữa, tuệ trí không có gì để phát triển nữa,không có năng lực nào để phát triển nữa, không có từ bi nào để phát triển nữa. Vì thế, hành giả có thể hóa độ chúng sinh, hướngdẫn mỗi chúng sinh mà không có bất cứ sai sót nhỏ nhiệm nào.

Thếnên điều này là, tất cả chúng ta bây giờ có năng lực ấy, tất cả năng lực để cóthể đem tất cả mọi người đi đến chấm dứt tất cả mọi vấn đề rắc rối cũng nhưnguyên nhân của vấn đề, để đem họ đến hạnh phúc không thể so lường được, thể trạngcủa tâm thức hiểu biết trọn vẹn, tâm thức hiện tại của chúng ta có tất cả nhữngkhả năng ấy, tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ toàn vẹn. Vì thế, bây giờ, bây giờ thế nào, nói mộtcách chính xác hơn, điều gì thế? Khảnăng hay tính bản nhiên giác ngộ trọn vẹn của tâm thức mà chúng ta đang cótrong sự tương tục tinh thần hiện tại, thế thì cái gì đấy? Bây giờ ở đây chúng ta đi đến tính bản nhiêntối thượng của tâm thức . Điều rõ ràng củatâm thức là có thể làm tất cả những điều này, tức là tâm thức có tất cả nhữngnăng lực này, khả năng này, khả năng không thể ngờ được, khả năng vô hạn, niềmhy vọng hay khả năng mà chúng ta có hay tâm thức hiện tại chúng ta phải cống hiếnlợi lạc rộng lớn đến mọi chúng sinh.

Vìthế, đấy là tâm thức này, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng và nhậnthức đốitượng, cũng như tâm thức này. Tâm thứccó toàn bộ năng lực này. Do vậy, bây giờ,tính bản nhiên của tâm thức là gì, đấy là tịnh quang, ánh sáng tinh khiết. Vậy thì tịnh quang là gì? Thế nên, chúng ta suy nghĩ, trước khichúngta đặt nhãn hiệu tâm thức, trước khi chúng ta mệnh danh “tâm thức”, có một lýdo trước khi đấy chúng ta nghĩ. Trướckhi chúng ta đặt cho nhãn hiệu có một lý do trước đấy. Lý do mà chúng ta suy nghĩ, là điều mà làmcho chúng ta quyết định nhãn hiệu đặc thù này, tâm thức, lý do mà làm cho chúngta quyết định nhãn hiệu đặc thù này của tâm thức, lý do ấy là căn bản, lý dotrước khi chúng ta, làm chúng ta quyết định là cái nhãn hiệu, điều được quycho, tâm thức là hiện tượng được quy cho và lý do mà chúng ta nghĩ trướckhichúng ta mệnh danh tâm thức, nó là căn bản được mệnh danh tâm thức, vì thế nólà hai vấn đề khác nhau. Vì thế, tâm thứclà điều không hình thể, không màu sắc, không hình dạng, và là điều mà tính bảnnhiên là trong sáng, nhận thức đối tượng, tủy thuộc trên điều này. Thế thì tâm thức của một người, tư tưởng,nhãn hiệu, chỉ đơn thuần quy cho tâm thức. Do bởi lý do này, hiện tượng đặc thù này, là điều khác biệt với thân thể,mà thể hiện chức năng khác với thân thể, bản chất khác với thân thể, chức năngkhác với thân thể, rồi thì do bởi điều này người ta làm nên nhãn hiệu “tâm thức”. Do thế, tâm thức là một khái niệm, một nhậnthức, hay một ý tưởng.

Tuythế, có một lý do, trước khi chúng ta gọi tâm thức, có một lý do trước điềunày. Rồi thì do sự lệ thuộc trên một lýdo nào đấy sau đó chúng ta mệnh danh tâm thức. Nhưng tâm thức chỉ đơn thuần được mệnh danh, điều gọi là tâm thức chỉđơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức, bởi tư tưởng. Do thế, không có tâm thức, không có tâm thứcthật sự tồn tại từ bản chất của nó. Không có tâm thức độc lập hay không có tâmthức tồn tại một cách cố hữu (tâm thức không có tự tính), [không có] một tâm thứctrong ý nghĩa tồn tại một cách cố hữu. Vì thế tâm thức như thế, cách hiện hữu của tâm thức với chúng ta và cáchmà chúng ta tin tưởng như thế, một tâm thức độc lập hay tồn tại một cách cố hữu,là trống rỗng, là hoàn toàn trống rỗng, không tồn tại, hoàn toàn rỗng khôngngay tại đấy.

Nhưvậy tâm thức không hiện hữu nhưng như vậy điều gì hiện hữu? Tâm thức mà xuất hiện tồn tại một cách cố hữulà không tồn tại, hay trống rỗng ngay đấy, nhưng điều hiện hữu là tâm thức làđiều chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi chính tư tưởng của con người, phụ thuộctrên những lý do này, tùy thuộc trên căn bản này, hiện tượng đặc thù này mà nólà vô hình tướng, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng, nhận thức đối tượng. Do thế, tâm thức này, nó là sự tồn tại biểuhiện chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức nhưng nó trống rỗng sự tồn tại từbản chất của nó. Vì vậy, đấy chính làtính bản nhiên của tâm thức, đây là tính bản nhiên tối hậu của tâm thức, và đâylà ý nghĩa của ánh sáng tinh khiết hay tịnh quang. Đây chính là tính bản nhiên của tâm thức, đâylà tính bản nhiên căn bản của tâm thức.

Vậythì bây giờ, đây là điều gì, đây là khả năng, đây là tính bản nhiên, đây là gì,đây là khả năng, đây là tính bản nhiên của sự toàn giác, mà tôi đã giải thích vừarồi, đấy là tâm thức giác ngộ trọn vẹn, tuệ trí tròn đầy, tâm thức hiểu biết trọnvẹn, năng lực toàn hảo, lòng bi mẫn vô hạn đối với tất cả chúng sinh. Vì thế, những ai có rắc rối, những ai tâm thứcbị chướng ngại, có lỗi lầm, cũng có lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh. Do vậy, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức,tịnh quang, là tính bản nhiên của sự giác ngộ trọn vẹn.

Thếnên, trong tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ tròn đầy, bởi vì hành độngcủa sự toàn giác đang chiếu soi, đang thâm nhập trong sự tương tục tinh thần củachúng ta và cách ấy, nó làm cho chúng ta phát triển tâm thức của chúng ta haynó làm cho chúng ta tạo nên nguyên nhân của hạnh phúc. Cách này, tâm thức chúng ta trở thành thái độtích cực và cách này có thể sản sinh hạnh phúc. Rồi thì, trong tính bản nhiên tối thượng, trong tính không, trong tính bảnnhiên tối hậu, không có điều khác biệt giữa tính bản nhiên của tâm thức chúngta và tính bản nhiên của sự toàn giác. Do vậy, điều này có liên hệ một cách chính đáng, bất cứ danh xưng khácbiệt mà con người sử dụng, bất cứ tín ngưỡng mà con người theo đuổi, con ngườicó thể liên hệ đến điều này, bất cứ cách nào, trên thế gian, người ta hầu hếttin tưởng rằng có kẻ nào đấy tối thượng, có kẻ nào đấy có năng lực tối cao, cónăng lực tuyệt hảo nhất, kẻ ban bố sự hướng dẫn, có ai đấy, có một chúng sinh tốithượng, có kẻ nào đấy hiểu biết trọn vẹn nhất, có kẻ nào đấy là tối thượng.

Vìvậy, tùy thuộc trên tín ngưỡng khác biệt, do thế có người gọi là Đức Phật, cóngười gọi là Thượng Đế, do vậy một cách thông thường có một niềm tin rằng cóchúng sinh tối cao. Vì thế, mặc dù nókhông rõ ràng, mặc dù không có sự hiểu biết rõ ràng điều gì đấy một cách chínhxác, tất cả những phẩm chất, tuy thế có niểm tin một cách phổ biến, hầu hết mọingười có một niềm tin rằng có ai đấy là tối thượng, do thế điều ấy hiện hữu phùhợp đến niềm tin của con người rồi đưa ra những nhãn hiệu khác nhau. Một số dùng chữ Thượng Đế, Thiên Chúa, một sốgọi là Đức Phật, Đấng Toàn Giác, và v.v… Thế nên điều này, điều này tôi đang diễn tả bây giờ, điều này, một sốngười, ngay cả Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo, đây là vấn đề liên hệ giốngnhư điều này. Rằng Thượng Đế hay Đức Phậthay Tính Toàn Giác đang hoạt động trong tâm thức quý vị. Vì thế tùy theo tín ngưỡng của con người, cóthể liên hệ đến [như thế nào đấy trong danh xưng].

Tuynhiên, trong tính không, trong tính bản nhiên tối hậu, không có gì khác biệt giữatính bản nhiên tối hậu của tâm thức hiện tại của con người, mặc dù tâm thức hiệntại này bị chướng ngại, không thanh tịnh, bị chướng ngại, nhưng trong tính bảnnhiên tối hậu, trong tính không, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức conngười,tâm thức mà bây giờ chướng ngại, điều với biểu hiện thời gian, và tính bảnnhiên tối hậu của tâm toàn giác hay hay bất cứ điều gì mà con người gọi,tính bảnnhiên tối hậu của tâm thức thánh thiện của Thượng Đế. Không thể tách rời, không có sự khác biệt, đến tận cùng của tính bản nhiên nềntảng không có sự khác biệt giữa chúng, [giữa] tính bản nhiên thiết yếu của tâmthức hiện tại của con người vốn dĩ mê muội (vọng tâm) và điều hoàn toàn thanh tịnh(chân tâm), cả hai thứ không có gì khác biệt. Có sự khác biệt căn bản, căn bản của tính bản nhiên nền tảng, điều đượchổ trợ và điều hổ trợ. Tính bản nhiên nềntảng phụ thuộc trên tâm thức, nó tồn tại bởi sự lệ thuộc trên tâm thức. Tâm thức là hổ trợ hay lệ thuộc. Vì thế, căn bản, sự hổ trợ, tâm thức,có nhữngsự khác biệt, điều này là bất tịnh và điều kia là hoàn toàn thanh tịnh,nhưng ngoại trừ đấy là sự khác biệtnhưng trong tính bản nhiên thiết yếu, không có sự khác biệt giữa hai thứnày. Vì thế đấy là một, [nên] tâm thứcchúng ta có tất cả những khả năng , khả năng hay tính bản nhiên của một chúngsinh giác ngộ trọn vẹn.

Thứba là, trong tính bản nhiên của tâm thứcđấy là khả năng mà con người có thể chuyển hóa thân thể trở thành một thân thểhoàn toàn thanh tịnh thánh thiện; hình tướng của thân thể hoàn toàn thánh thiệnthanh tịnh, những khía cạnh khác biệt ấy, [là để] hướng dẫn những chúng sinhkhác, để làm lợi ích cho chúng sinh, để đưa họ đến, để khai mở, để hướng dẫnvào con đường [giải thoát giác ngộ], để đưa họ từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnhphúc không thể so sánh , sự giác ngộ trọn vẹn. Do thế, vì ba lý do này, nên trong tâm thức chúng ta có khả năng haytính bản nhiên của một chúng sinh giác ngộ tròn đủ.

Vìthế bây giờ, tính bản nhiên trong sáng của tâm thức, điều này thanh tịnh, khôngbị nhiễm ô bởi si mê, tâm thức không thỏa mãn dính mắc, sân hận, kiêu căng,nghi ngờ, tà kiến sai lầm. Tính bảnnhiên của tâm thức không là một với vị kỷ, tự ngã; tính bản nhiên của tâm thứckhông là một với tư tưởng tự kỷ, nó không là một với tự ngã. Điều này, do bởi thế, nó là là thanh tịnh,tính bản nhiên của tâm thức là thanh tịnh, do bởi ý nghĩa đấy, vì nó không là mộtvới những sai lầm của tâm thức, nó không là một với tội lỗi, không là một vớinhững lỗi lầm.

Vìthế, những lỗi lầm đó là tạm thời, giống như thời tiết, bầu trời không là một vớisương mù, những đám mây đó, nó chỉ tạm thời bị che phủ bởi sương mù vàmây. Bởi vì bầu trời không là một vớinhững đám mây, vì qua những nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên) nào đấy, nhữngđám mây và sương mù đó đến nhưng những nhân duyên khác chúng sẽ được dọnđi. Bầu trời sẽ trở nên rất trong sáng,có thể cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống mặt đất, rồi thì có thể cho conngười nhiều sự sướng vui, nhiều niềm hạnh phúc giải thoát nhiều rắc rối, chứkhông như lúc không có ánh sáng; vì thế có thể ban cho nhiều niềm thú vị, đểgieo trồng cây cối, mùa màng, và v.v… Cũng giống như vậy [những lỗi lầm hay sựâm u của bầu trời] là tạm thời, như thời tiết xấu, [bầu trời] đầy sương mù và lạnhvà những cơn mưa đá và v.v…, điều ấy không phải mãi mãi, nó là tạm thời.

Tươngtự như thế, tấm gương bị bao phủ bởi bụi mờ, nó không phải mãi mãi, nó là tạmthời. Vì thế qua những nhân duyên khác,nó bị lu mờ bởi bụi bám nhưng qua những nhân duyên khác nó có thể được lau sạch. Cũng giống như vậy, tương tự, tâm thức khôngkiên nhẫn, tâm thức vị kỷ, v.v…, chính sựkhông hài lòng, quá mạnh tham dục, tất cả những thứ này, những lỗi lầm mà chúngta đã làm, tất cả những thứ này không phải mãi mãi như vậy, chúng là tạm thời. Do thế qua những nhân duyên khác, chúng vì thếsẽ được dọn dẹp hay chúng sẽ tẩy trừ. Thếđấy, tâm thức này có thể được giải thoát khỏi tất cả những thứ ấy, rằng tâm thứcnày sẽ trở nên thanh tịnh, được tự do khỏi những thứ này, do lệ thuộc trên nhữngnhân duyên khác.

Thếnên, giống như vậy, thí dụ, sửa có khả năng sản xuất bơ, nhưng nó tùy thuộctrên những điều kiện khác, nó tùy thuộc trên điều kiện cần có để làm cho sửa sảnxuất ra bơ. Ở Tây Tạng, người ta đặt sửatrong trong thùng làm bơ, chiếc thùng này làm bằng gỗ hay tre hay bất cứ thứgì, rồi thì chiếc thùng, rồi thì bằng việc lệ thuộc trên điều kiện ấy, rồi thìbằng việc gặp gở điều kiện ấy mới sản xuất ra bơ. Tương tự thế, chiếc chiêng, chiếc chiêng cókhả năng tạo ra âm thinh, nhưng cho đến khi nó gặp điều kiện, có người thỉnhchiếc chiêng một cái bằng cái dùi, đánh vào chiếc chiêng, và cho đến khi điềukiện ấy xãy ra, âm thinh sẽ không phát ra, tiếng chiêng không phát ra. Do thế, khả năng ở đấy, đấy là yêu cầu gặp gởđiều kiện, đùi chiêng, đánh, chạm vào chiếc chiêng. Thế nên giống như vậy, tâm thức này có tất cảnhững khả năng để đạt đến bất cứ hạnh phúc nào, đạt đến bất cứ cấp độ nào của hạnhphúc, để đem đến lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh khác…

Tuệ Uyểnchuyển ngữ - 10/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1589


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2020(Xem: 5172)
Hội đồng Lập pháp Sikkim đã thông qua dự luật ngày 21 tháng 9 năm 2020, để thành lập một ngôi trường Đại học Phật giáo ở bang đông bắc Ấn Độ. Được biết với tên gọi Đại học Phật giáo Khangchendzonga (KBU), cơ sở này sẽ trở thành trường Đại học tư thục Phật giáo đầu tiên tại Ấn Độ, và là trường Đại học đầu tiên tại Sikkim do người dân bản địa Sikkim sáng lập.
01/10/2020(Xem: 5581)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phật có quan niệm bi quan. Sự thật không phải như vậy. Từ điển đã định nghĩa bi quan là “có thói quen nghĩ rằng cái gì sắp xảy đến đều là xấu cả, đều đáng chán và không tin tưởng ở tương lai” hoặc bi quan là “chán nản, không tin tưởng, hoặc mất niềm tin vào hiện tại, tương lai”.
30/09/2020(Xem: 5751)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5632)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4774)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5519)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5784)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 7215)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5349)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6478)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]