Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

26/12/201017:32(Xem: 9203)
2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÍNH BẢN NHIÊN CỦA TÂM THỨC

 

Vìthế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo,và có thể biểu hiện ngay cả cho một chúng sinh, hàng trăm, hàng nghìn, và nhiềunữa mà hành giả có thể biểu hiện, trong những thân tướng khác nhau, khi có nhucầu cần đến, để hóa độ, để hướng dẫn từ hạnh phúc đến hạnh phúc. Giống như thế, rồi lần lần đưa mọi người đếnchấm dứt sự chết, tái sinh, và toàn bộ những rắc rối và đưa họ đến tâm thức tốithượng, tâm thức hiểu biết hoàn toàn.

Thếcho nên những lợi ích rộng lớn vô cùng như vậy mà chúng ta có thể cung ứng chomỗi chúng sinh, với sự giải thoát hoàn toàn, với tuệ trí, hiểu biết trọn vẹn,mà không có một chút si mê, chướng ngại nào cả, và năng lực toàn hảo để khai mởbất cứ sự hướng dẫn, bất cứ phương pháp nào thích ứng với họ để đem họ vàotrong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Rồi thì lòng bi mẫn vô hạn cho người khác,lòng bi mẫn không thể lường được cho mỗi chúng sinh, lòng bi mẫn nguyện ước mỗichúng sinh được giải thoát khỏi những rắc rối và nguyên nhân khổ đau và tự mìnhđể làm việc, để tự mình lãnh lấy trách nhiệm ấy, vì thể có lòng từ bi vô hạn,vào lúc ấy lòng từ bi, tâm thức được rèn luyện trong từ bi được hoàn thành,không có gì để phát triển thêm nữa, tuệ trí không có gì để phát triển nữa,không có năng lực nào để phát triển nữa, không có từ bi nào để phát triển nữa. Vì thế, hành giả có thể hóa độ chúng sinh, hướngdẫn mỗi chúng sinh mà không có bất cứ sai sót nhỏ nhiệm nào.

Thếnên điều này là, tất cả chúng ta bây giờ có năng lực ấy, tất cả năng lực để cóthể đem tất cả mọi người đi đến chấm dứt tất cả mọi vấn đề rắc rối cũng nhưnguyên nhân của vấn đề, để đem họ đến hạnh phúc không thể so lường được, thể trạngcủa tâm thức hiểu biết trọn vẹn, tâm thức hiện tại của chúng ta có tất cả nhữngkhả năng ấy, tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ toàn vẹn. Vì thế, bây giờ, bây giờ thế nào, nói mộtcách chính xác hơn, điều gì thế? Khảnăng hay tính bản nhiên giác ngộ trọn vẹn của tâm thức mà chúng ta đang cótrong sự tương tục tinh thần hiện tại, thế thì cái gì đấy? Bây giờ ở đây chúng ta đi đến tính bản nhiêntối thượng của tâm thức . Điều rõ ràng củatâm thức là có thể làm tất cả những điều này, tức là tâm thức có tất cả nhữngnăng lực này, khả năng này, khả năng không thể ngờ được, khả năng vô hạn, niềmhy vọng hay khả năng mà chúng ta có hay tâm thức hiện tại chúng ta phải cống hiếnlợi lạc rộng lớn đến mọi chúng sinh.

Vìthế, đấy là tâm thức này, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng và nhậnthức đốitượng, cũng như tâm thức này. Tâm thứccó toàn bộ năng lực này. Do vậy, bây giờ,tính bản nhiên của tâm thức là gì, đấy là tịnh quang, ánh sáng tinh khiết. Vậy thì tịnh quang là gì? Thế nên, chúng ta suy nghĩ, trước khichúngta đặt nhãn hiệu tâm thức, trước khi chúng ta mệnh danh “tâm thức”, có một lýdo trước khi đấy chúng ta nghĩ. Trướckhi chúng ta đặt cho nhãn hiệu có một lý do trước đấy. Lý do mà chúng ta suy nghĩ, là điều mà làmcho chúng ta quyết định nhãn hiệu đặc thù này, tâm thức, lý do mà làm cho chúngta quyết định nhãn hiệu đặc thù này của tâm thức, lý do ấy là căn bản, lý dotrước khi chúng ta, làm chúng ta quyết định là cái nhãn hiệu, điều được quycho, tâm thức là hiện tượng được quy cho và lý do mà chúng ta nghĩ trướckhichúng ta mệnh danh tâm thức, nó là căn bản được mệnh danh tâm thức, vì thế nólà hai vấn đề khác nhau. Vì thế, tâm thứclà điều không hình thể, không màu sắc, không hình dạng, và là điều mà tính bảnnhiên là trong sáng, nhận thức đối tượng, tủy thuộc trên điều này. Thế thì tâm thức của một người, tư tưởng,nhãn hiệu, chỉ đơn thuần quy cho tâm thức. Do bởi lý do này, hiện tượng đặc thù này, là điều khác biệt với thân thể,mà thể hiện chức năng khác với thân thể, bản chất khác với thân thể, chức năngkhác với thân thể, rồi thì do bởi điều này người ta làm nên nhãn hiệu “tâm thức”. Do thế, tâm thức là một khái niệm, một nhậnthức, hay một ý tưởng.

Tuythế, có một lý do, trước khi chúng ta gọi tâm thức, có một lý do trước điềunày. Rồi thì do sự lệ thuộc trên một lýdo nào đấy sau đó chúng ta mệnh danh tâm thức. Nhưng tâm thức chỉ đơn thuần được mệnh danh, điều gọi là tâm thức chỉđơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức, bởi tư tưởng. Do thế, không có tâm thức, không có tâm thứcthật sự tồn tại từ bản chất của nó. Không có tâm thức độc lập hay không có tâmthức tồn tại một cách cố hữu (tâm thức không có tự tính), [không có] một tâm thứctrong ý nghĩa tồn tại một cách cố hữu. Vì thế tâm thức như thế, cách hiện hữu của tâm thức với chúng ta và cáchmà chúng ta tin tưởng như thế, một tâm thức độc lập hay tồn tại một cách cố hữu,là trống rỗng, là hoàn toàn trống rỗng, không tồn tại, hoàn toàn rỗng khôngngay tại đấy.

Nhưvậy tâm thức không hiện hữu nhưng như vậy điều gì hiện hữu? Tâm thức mà xuất hiện tồn tại một cách cố hữulà không tồn tại, hay trống rỗng ngay đấy, nhưng điều hiện hữu là tâm thức làđiều chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi chính tư tưởng của con người, phụ thuộctrên những lý do này, tùy thuộc trên căn bản này, hiện tượng đặc thù này mà nólà vô hình tướng, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng, nhận thức đối tượng. Do thế, tâm thức này, nó là sự tồn tại biểuhiện chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức nhưng nó trống rỗng sự tồn tại từbản chất của nó. Vì vậy, đấy chính làtính bản nhiên của tâm thức, đây là tính bản nhiên tối hậu của tâm thức, và đâylà ý nghĩa của ánh sáng tinh khiết hay tịnh quang. Đây chính là tính bản nhiên của tâm thức, đâylà tính bản nhiên căn bản của tâm thức.

Vậythì bây giờ, đây là điều gì, đây là khả năng, đây là tính bản nhiên, đây là gì,đây là khả năng, đây là tính bản nhiên của sự toàn giác, mà tôi đã giải thích vừarồi, đấy là tâm thức giác ngộ trọn vẹn, tuệ trí tròn đầy, tâm thức hiểu biết trọnvẹn, năng lực toàn hảo, lòng bi mẫn vô hạn đối với tất cả chúng sinh. Vì thế, những ai có rắc rối, những ai tâm thứcbị chướng ngại, có lỗi lầm, cũng có lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh. Do vậy, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức,tịnh quang, là tính bản nhiên của sự giác ngộ trọn vẹn.

Thếnên, trong tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ tròn đầy, bởi vì hành độngcủa sự toàn giác đang chiếu soi, đang thâm nhập trong sự tương tục tinh thần củachúng ta và cách ấy, nó làm cho chúng ta phát triển tâm thức của chúng ta haynó làm cho chúng ta tạo nên nguyên nhân của hạnh phúc. Cách này, tâm thức chúng ta trở thành thái độtích cực và cách này có thể sản sinh hạnh phúc. Rồi thì, trong tính bản nhiên tối thượng, trong tính không, trong tính bảnnhiên tối hậu, không có điều khác biệt giữa tính bản nhiên của tâm thức chúngta và tính bản nhiên của sự toàn giác. Do vậy, điều này có liên hệ một cách chính đáng, bất cứ danh xưng khácbiệt mà con người sử dụng, bất cứ tín ngưỡng mà con người theo đuổi, con ngườicó thể liên hệ đến điều này, bất cứ cách nào, trên thế gian, người ta hầu hếttin tưởng rằng có kẻ nào đấy tối thượng, có kẻ nào đấy có năng lực tối cao, cónăng lực tuyệt hảo nhất, kẻ ban bố sự hướng dẫn, có ai đấy, có một chúng sinh tốithượng, có kẻ nào đấy hiểu biết trọn vẹn nhất, có kẻ nào đấy là tối thượng.

Vìvậy, tùy thuộc trên tín ngưỡng khác biệt, do thế có người gọi là Đức Phật, cóngười gọi là Thượng Đế, do vậy một cách thông thường có một niềm tin rằng cóchúng sinh tối cao. Vì thế, mặc dù nókhông rõ ràng, mặc dù không có sự hiểu biết rõ ràng điều gì đấy một cách chínhxác, tất cả những phẩm chất, tuy thế có niểm tin một cách phổ biến, hầu hết mọingười có một niềm tin rằng có ai đấy là tối thượng, do thế điều ấy hiện hữu phùhợp đến niềm tin của con người rồi đưa ra những nhãn hiệu khác nhau. Một số dùng chữ Thượng Đế, Thiên Chúa, một sốgọi là Đức Phật, Đấng Toàn Giác, và v.v… Thế nên điều này, điều này tôi đang diễn tả bây giờ, điều này, một sốngười, ngay cả Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo, đây là vấn đề liên hệ giốngnhư điều này. Rằng Thượng Đế hay Đức Phậthay Tính Toàn Giác đang hoạt động trong tâm thức quý vị. Vì thế tùy theo tín ngưỡng của con người, cóthể liên hệ đến [như thế nào đấy trong danh xưng].

Tuynhiên, trong tính không, trong tính bản nhiên tối hậu, không có gì khác biệt giữatính bản nhiên tối hậu của tâm thức hiện tại của con người, mặc dù tâm thức hiệntại này bị chướng ngại, không thanh tịnh, bị chướng ngại, nhưng trong tính bảnnhiên tối hậu, trong tính không, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức conngười,tâm thức mà bây giờ chướng ngại, điều với biểu hiện thời gian, và tính bảnnhiên tối hậu của tâm toàn giác hay hay bất cứ điều gì mà con người gọi,tính bảnnhiên tối hậu của tâm thức thánh thiện của Thượng Đế. Không thể tách rời, không có sự khác biệt, đến tận cùng của tính bản nhiên nềntảng không có sự khác biệt giữa chúng, [giữa] tính bản nhiên thiết yếu của tâmthức hiện tại của con người vốn dĩ mê muội (vọng tâm) và điều hoàn toàn thanh tịnh(chân tâm), cả hai thứ không có gì khác biệt. Có sự khác biệt căn bản, căn bản của tính bản nhiên nền tảng, điều đượchổ trợ và điều hổ trợ. Tính bản nhiên nềntảng phụ thuộc trên tâm thức, nó tồn tại bởi sự lệ thuộc trên tâm thức. Tâm thức là hổ trợ hay lệ thuộc. Vì thế, căn bản, sự hổ trợ, tâm thức,có nhữngsự khác biệt, điều này là bất tịnh và điều kia là hoàn toàn thanh tịnh,nhưng ngoại trừ đấy là sự khác biệtnhưng trong tính bản nhiên thiết yếu, không có sự khác biệt giữa hai thứnày. Vì thế đấy là một, [nên] tâm thứcchúng ta có tất cả những khả năng , khả năng hay tính bản nhiên của một chúngsinh giác ngộ trọn vẹn.

Thứba là, trong tính bản nhiên của tâm thứcđấy là khả năng mà con người có thể chuyển hóa thân thể trở thành một thân thểhoàn toàn thanh tịnh thánh thiện; hình tướng của thân thể hoàn toàn thánh thiệnthanh tịnh, những khía cạnh khác biệt ấy, [là để] hướng dẫn những chúng sinhkhác, để làm lợi ích cho chúng sinh, để đưa họ đến, để khai mở, để hướng dẫnvào con đường [giải thoát giác ngộ], để đưa họ từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnhphúc không thể so sánh , sự giác ngộ trọn vẹn. Do thế, vì ba lý do này, nên trong tâm thức chúng ta có khả năng haytính bản nhiên của một chúng sinh giác ngộ tròn đủ.

Vìthế bây giờ, tính bản nhiên trong sáng của tâm thức, điều này thanh tịnh, khôngbị nhiễm ô bởi si mê, tâm thức không thỏa mãn dính mắc, sân hận, kiêu căng,nghi ngờ, tà kiến sai lầm. Tính bảnnhiên của tâm thức không là một với vị kỷ, tự ngã; tính bản nhiên của tâm thứckhông là một với tư tưởng tự kỷ, nó không là một với tự ngã. Điều này, do bởi thế, nó là là thanh tịnh,tính bản nhiên của tâm thức là thanh tịnh, do bởi ý nghĩa đấy, vì nó không là mộtvới những sai lầm của tâm thức, nó không là một với tội lỗi, không là một vớinhững lỗi lầm.

Vìthế, những lỗi lầm đó là tạm thời, giống như thời tiết, bầu trời không là một vớisương mù, những đám mây đó, nó chỉ tạm thời bị che phủ bởi sương mù vàmây. Bởi vì bầu trời không là một vớinhững đám mây, vì qua những nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên) nào đấy, nhữngđám mây và sương mù đó đến nhưng những nhân duyên khác chúng sẽ được dọnđi. Bầu trời sẽ trở nên rất trong sáng,có thể cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống mặt đất, rồi thì có thể cho conngười nhiều sự sướng vui, nhiều niềm hạnh phúc giải thoát nhiều rắc rối, chứkhông như lúc không có ánh sáng; vì thế có thể ban cho nhiều niềm thú vị, đểgieo trồng cây cối, mùa màng, và v.v… Cũng giống như vậy [những lỗi lầm hay sựâm u của bầu trời] là tạm thời, như thời tiết xấu, [bầu trời] đầy sương mù và lạnhvà những cơn mưa đá và v.v…, điều ấy không phải mãi mãi, nó là tạm thời.

Tươngtự như thế, tấm gương bị bao phủ bởi bụi mờ, nó không phải mãi mãi, nó là tạmthời. Vì thế qua những nhân duyên khác,nó bị lu mờ bởi bụi bám nhưng qua những nhân duyên khác nó có thể được lau sạch. Cũng giống như vậy, tương tự, tâm thức khôngkiên nhẫn, tâm thức vị kỷ, v.v…, chính sựkhông hài lòng, quá mạnh tham dục, tất cả những thứ này, những lỗi lầm mà chúngta đã làm, tất cả những thứ này không phải mãi mãi như vậy, chúng là tạm thời. Do thế qua những nhân duyên khác, chúng vì thếsẽ được dọn dẹp hay chúng sẽ tẩy trừ. Thếđấy, tâm thức này có thể được giải thoát khỏi tất cả những thứ ấy, rằng tâm thứcnày sẽ trở nên thanh tịnh, được tự do khỏi những thứ này, do lệ thuộc trên nhữngnhân duyên khác.

Thếnên, giống như vậy, thí dụ, sửa có khả năng sản xuất bơ, nhưng nó tùy thuộctrên những điều kiện khác, nó tùy thuộc trên điều kiện cần có để làm cho sửa sảnxuất ra bơ. Ở Tây Tạng, người ta đặt sửatrong trong thùng làm bơ, chiếc thùng này làm bằng gỗ hay tre hay bất cứ thứgì, rồi thì chiếc thùng, rồi thì bằng việc lệ thuộc trên điều kiện ấy, rồi thìbằng việc gặp gở điều kiện ấy mới sản xuất ra bơ. Tương tự thế, chiếc chiêng, chiếc chiêng cókhả năng tạo ra âm thinh, nhưng cho đến khi nó gặp điều kiện, có người thỉnhchiếc chiêng một cái bằng cái dùi, đánh vào chiếc chiêng, và cho đến khi điềukiện ấy xãy ra, âm thinh sẽ không phát ra, tiếng chiêng không phát ra. Do thế, khả năng ở đấy, đấy là yêu cầu gặp gởđiều kiện, đùi chiêng, đánh, chạm vào chiếc chiêng. Thế nên giống như vậy, tâm thức này có tất cảnhững khả năng để đạt đến bất cứ hạnh phúc nào, đạt đến bất cứ cấp độ nào của hạnhphúc, để đem đến lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh khác…

Tuệ Uyểnchuyển ngữ - 10/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1589


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7270)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6210)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 5774)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5742)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7289)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4588)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9578)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5709)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5308)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6018)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]