Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tính cách đa dạng của tôn giáo

24/12/201009:44(Xem: 13150)
Tính cách đa dạng của tôn giáo

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾNHẠNH PHÚC
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: WisdomPublications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Pressesdu Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việtdịch

4
Tínhcách đa dạng củatôn giáo

Khi chưa nhìn thấy giátrị của những truyền thống tôn giáo khác, thật khó cho ta kính trọng cáctôngiáo ấy. Tuy nhiên, sự kính trọng lẫn nhau phải căn cứ trên sự hài hoà chânthật. Chúng ta cần phải hướng đến một tình thần hài hoà, không phải vì lý dochính trị hoặc kinh tế, nhưng chỉ vì giá trị của các truyền thống khác. Riêngphần tôi, tôi luôn luôn cố gắng đề cao sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Dựa vào đức tin của mìnhđể nâng cao các giá trị căn bản của con người là một tiến trình tích cực. Cáctôn giáo chính trên thế giới đều nêu cao giá trị của tình thương, lòng từ bi vàsự tha thứ. Nhất định là mỗi tôn giáo thực hành theo cách thức của mình,nhưngtất cả đều nhắm vào những mục đích ít nhiều giống nhau – sống hạnh phúc hơn,trở nên từ bi hơn và xây dựng một thế giới với nhiều tình thương hơn –, sự đadạng về phương pháp của các tôn giáo không quan trọng lắm. Tầm quan trọng lớnhơn là phải phát huy tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ ; các tôn giáo chínhđều hàm chứa một tiềm năng như nhau. Một số người có xu hướng tin vào tôn giáo,và khi đã nhìn thấy sự đa dạng về năng khiếu trong các xu hướng của con người,thì ta phải hiểu rằng sự kiện có nhiều tôn giáo khác nhau là một điều hữu lý.Sự thực bao giờ cũng ích lợi.

Đến đây tôi xin đề cậpđến vấn đề hài hoà tôn giáo bằng cách phân biệt thành hai cấp bậc tâm linh khácnhau.

Cấp bậc tâm linh thứnhất :
đức tin và sự rộnglượng

Đối với các tôn giáochính cũng như đối với tất cả mọi người, cấp bậc tu tập thứ nhất chính là đứctin. Tôi tin rằng tất cả các tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng, nhưngnếu muốn cho các tôn giáo có thể góp phần một cách hữu hiệu vào lợi ích chungcủa nhân loại, cần phải có hai yếu tố.

Yếu tố thứ nhất là mỗicá nhân – tức là chúng ta đây – khi đã theo một tôn giáo nào thì nên thực thimột cách chân thật. Những lời giáo huấn có tính cách tôn giáo phải trở thànhnhững gì gắn liền với đời sống của ta và lưu lại trong ta. Đôi khi ta bước vàomột nhà thờ hay một ngôi chùa để cầu nguyện hay tĩnh tâm, nhưng lúc vừa đặtchân ra khỏi các nơi ấy thì những giây phút nhiệt tình hướng về tôn giáochẳngcòn lưu lại gì cả. Như thế không phải là cách tu tập đứng đắn. Những gì mà tôngiáo ủy thác phải được giữ lại trong ta, dù cho ta đang ở bất cứ nơi nào. Tấtcả những lời giáo huấn của tôn giáo phải luôn luôn hiện hữu trong sự sống, mỗikhi ta cần đến những cảm ứng thiêng liêng hay một sức mạnh đạo đức, ta sẽ cóngay. Khi những cảm ứng và sức mạnh đó đã hiện hữu thường xuyên trong ta, thikhi ấy ta mới có thể sử dụng chúng để đối đầu với những khó khăn vụt đến.

Tôn giáo chỉ thật sự hữuích khi đã hội nhập vào đời sống của ta. Cần phải biết tôn giáo đã dạy ta nhữnggì và hãy áp dụng ngay những điều học hỏi được vào những cảm nhận của ta. Đôikhi các ý niệm về tôn giáo chỉ được hiểu một cách thật lờ mờ trên phươngdiệnlý trí. Nếu thiếu sự cảm nhận, sức hữu hiệu của tôn giáo sẽ rất giới hạn. Vì thếphải tu tập chân thành để giúp sự sống của ta thấm nhuần với tôn giáo.

Yếu tố thứ hai liên quannhiều hơn với sự tương quan giữa các tôn giáo. Ngày nay, nhờ vào tiến bôkỹthuật và hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta lại càng lệ thuộc với nhau nhiềuhơn nữa. Những quốc gia cách biệt nhau, những lục địa xa xôi đều liên hệmậtthiết với nhau trong bối cảnh hiện tại. Sự liên hệ đó chặt chẽ đến đỗi sự tồnvong của một vùng nào đó trên địa cầu cũng đều liên hệ đến sự tồn vong củanhững nơi khác. Sự tương liên trên thế giới trở nên chặt chẽ hơn, vì thếsựtương tác giữa con người cũng mang tầm vóc rộng lớn hơn. Những biến chuyển trênđây chứng minh cho thấy thái độ chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo mangmộttầm quan trọng vô biên. Trước đây, khi các tập thể con người sinh sống cáchbiệt nhau và các tôn giáo cũng tương đối bị cô lập, thì ý niệm chỉ cần một tôngiáo duy nhất còn có thể chấp nhận được, kể cả rất hữu ích nữa. Nhưng ngày nay,hoàn cảnh đã khác và tình thế đổi thay. Thật hết sức cần thiết phải chấpnhậnsự đa dạng trong tôn giáo và chủ trương sự kính trọng lẫn nhau một cách thànhthực, một sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các tôn giáo là một điều bắt buộc. Trên đâylà yếu tố thứ hai giúp cho mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới trở nên hữuhiệu hơn trong các công tác chung về nhân đạo.

Khi tôi còn sinh sốngtrên Tây tạng, ngoài Phật giáo ra tôi không có một dịp nào để tiếp xúc với cáctín đồ của các truyển thống khác, thái độ lúc đó của tôi đối các tôn giáo kháckhông được tích cực lắm. Nhưng sau này khi tôi có dịp gặp những người thuộc cáctín ngưỡng khác nhau, và nhân dịp đó để đào sâu những kinh nghiệm cá nhân, thìthái độ của tôi đối với các tôn giáo khác đã đổi thay. Tôi hiểu rằng cáctôngiáo ấy hết sức cần thiết cho nhân loại và mỗi tôn giáo đều có tiềm năngđưađến một thế giới tốt đẹp hơn. Suốt trong những thế kỷ vừa qua, các tôn giáokhác nhau đã góp phần tích cực để cải thiện con người, và kể cả ngày hômnay,nhiều người tu tập đã đạt được sự thăng tiến nhờ vào các tôn giáo như Thiênchúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo hoặc các truyềnthốngkhác nữa.

Đối thoại với nhữngngười tu tập tthuộc những tôn giáo khác thật hết sức phong phú. Hãy lấy một thídụ, các dịp dàm thoại giữa tôi với ông Thomas Merton, ngày nay đã qua đời, đã giúptôi nhận ra ông là một con người tuyệt vời, và cũng giúp tôi hé thấy tiềm năngtinh thần hàm chứa trong đức tin Thiên chúa giáo. Vào một dịp khác, tôi làmquen với một nhà tu Thiên chúa giáo trong một tu viện nổi tiếng ở Montserra,thuộc Tây ban nha. Ông này đã sống ẩn dật nhiều năm trên một ngọn đồi phía sautu viện. Khi tôi đến viếng vùng này, ông đã bỏ nơi ẩn cư để xuống gặp tôi,tiếng Anh của ông ta còn tệ hơn cả tiếng Anh của tôi, nhưng điều đó đã giúp tôicó thêm can đảm để đàm thoại với ông ! Chúng tôi ngồi đối mặt với nhau và tôicất lời hỏi ông ta như sau : « Trong suốt những năm qua, ông đã làm gì trênđỉnh đồi thế ? ». Ông ta nhìn tôi một lúc rồi trả lời như sau : « Tôi thiềnđịnh về lòng từ bi và tình yêu thương ». Lúc ông ta cất lời để nói lên cáctiếng ấy, tôi đã nhận thấy thông điệp trong mắt ông. Và tôi cảm nhận được mộtniềm kính trọng sâu xa nơi con người của ông và cả những người khác giống vơíông. Đấy là những loại kinh nghiệm đã làm cho tôi tin rằng tất cả những tôngiáo trên thế giới, dù cho khác biệt trên lảnh vực triết học và tín điều, đềucó khả năng tạo ra những con người tốt. Mỗi tôn giáo đều quảng bá một thôngđiệp tuyệt vời.

Những lời giáo huấn xâydựng trên đức tin về một vị Trời sáng tạo nêu lên một hướng đi rất mạnh.Nhữngngười Thiên chúa giáo không tin vào sự tái sinh, cũng không tin vào các kiếpsống trước và các kiếp sống tương lai, nhưng sự vững tin là kiếp sống này doTrời tạo ra, đã giúp cho họ những xúc cảm gần gũi với đấng sáng tạo mà họ trựcthuộc. Họ tiếp nhận những lời giáo huấn khuyên họ phải thương yêu các ngườiđồng loại. Thật ra, nếu ta yêu quý Trời, ta phải yêu thương tất cả mọi người,bởi vì họ cũng như ta, tất cả đều là sự sáng tạo của Trời. Nếu như số phậntương lai của kẻ khác, cũng như của chính ta, đều nằm trong tay của Trời, thìđương nhiên chúng ta đều chịu chung một cảnh huống. Ngược lại, những ai đòi hỏikẻ khác phải yêu mến Trời, nhưng chính mình thì lại không tỏ ra một dấu hiệunào chứng tỏ tình yêu thương của mình đối với anh em và chị em cùng mangchungmột đức tin, thì những kẻ đó thật đáng nghi ngờ. Bất cứ một người nào tin vàomột vị Trời và vào tình thương của Ngài thì phải chứng tỏ một cách thànhthậttình cảm của mình hướng về Trời bằng cách yêu thương người đồng loại. Cách suydiễn như thế tạo ra một sự tiếp cận mạnh mẽ, có phải thế hay chăng ?

Vì thế, khi ta quán xétmột tôn giáo dưới nhiều khía cạnh khác nhau, như cách ta vừa làm – khôngphảibằng chính quan điểm triết học của ta, nhưng phải dựa trên nhiều cấp bậckhácnhau –, thì nhất định tất cả các tôn giáo chính đều mang tiềm năng giúp cho conngười trở nên hoàn hảo hơn. Khi giao du với các tín đồ của các tôn giáo khác,ta sẽ biết mở rộng tâm thức và đưa đến một sự tương kính đối với các truyềnthống khác. Tôi đã học hỏi được nhiều sáng kiến mới lạ liên quan đến cácphươngpháp tu tập khi tiếp xúc với các tôn giáo khác và đem ghép thêm vào cáchtu tậpcủa riêng tôi. Đồng thời, các anh em chị em Thiên chúa giáo cũng nên chọn và sửdụng một số kỹ thuật của Phật giáo – chẳng hạn như sự chú tâm vào một điểm vàcác phương pháp giúp phát huy sự rộng lượng, lòng từ bi và tình yêu thương.Những cuộc gặp gỡ và đối thoại như thế thật hữu ích, vì đã tích cực góp phầnlàm gia tăng thêm sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Các nhà chính trị và cácnguyên thủ Quốc gia thường nói đến sự tương trợ và đoàn kết. Tại sao chúng talà những người thuộc phía tôn giáo lại lại không thể nêu lên điều đó ? Tôi nghĩrằng đã đến lúc phải làm việc ấy. Vào năm 1997, tại Abisse thuộc nước Ý,cácngười đại diện các tôn giáo khác nhau trên thế giới tập họp lại để cùng nhaucầu nguyện, tuy rằng tôi không tin chắc rằng chữ « cầu nguyện » là một chữthích nghi để mô tả một cách chính xác cách tu tập của tất cả các tôn giáo.Nhưng cũng chẳng sao, điều thiết yếu là những thành phần tôn giáo thuộc cáctruyền thống khác nhau đã tụ hội lại cùng một địa điểm để cầu nguyện, theo sựtin tưởng riêng của mỗi truyền thống. Theo tôi biến cố đó mang một tính cáchrất tích cực. Cần phải tiếp tục trên đường hướng ấy và gia tăng nhiều hơn nữa nhữngcố gắng đem đến hài hoà và giúp các tôn giáo trên toàn thế giới xích lạigầnnhau hơn. Nếu không, có thể chúng ta sẽ còn phải đối đầu với thật nhiều khókhăn có thể chia rẽ cả nhân loại.

Nếu như tôn giáo là mộtliều thuốc duy nhất có thể làm suy giảm những xung đột giữa con người, thì quảthật là một thảm họa nếu liều thuốc ấy lại hoá thành nguồn gốc đưa đến xung độtvới nhau. Kể cả ngày nay cũng như từ ngàn xưa, những bất hoà nhân danh tôn giáovẫn thường bùng nổ, tôi thấy điều ấy hết sức là đáng buồn. Khi suy tư một cáchcởi mở hơn và sâu xa hơn, ta sẽ nhận thấy tình thế trong quá khứ khác hẳn vớingày nay. Trong tình thế hiện tại, thay vì bị cô lập, chúng ta trở nên liên đớivới nhau nhiều hơn. Vì thế thật cần thiết phải tạo lập sự tương quan chặt chẽgiữa các tôn giáo, giúp cho các đoàn thể có thể hợp tác bên cạnh nhau trong nổlực chung hướng về sự an lành của nhân loại.

Cấp bậc tâm linh thứhai :
từ bi là một tôn giáotoàn cầu

Cấp bậc tâm linh thứhai, vượt lên trên mọi dị biệt về tôn giáo, đó là lòng từ bi và tình thương yêugiữa con người. Cấp bậc này quan trọng hơn nhiều so với cấp bậc thứ nhất, vì dùrằng tôn giáo có tốt đẹp đến đâu, thì cũng chỉ có một số ít người theo. Hầu hếttrong số năm đến sáu tỷ người trên hành tinh này, hình như không có mấy ai tu tậphoặc theo bất cứ một tôn giáo nào cả. Tùy theo truyền thống gia đình, họtựnhận diện như thuộc vào nhóm này hay nhóm khác – « tôi là người thuộc Ấnđộgiáo », « tôi là người Phật giáo », « tôi là người Thiên chúa giáo » –, nhưngthật ra trong chính lương tâm họ, họ không phải là những người tu tập. Cũngchẳng sao ! Một người nào đó gia nhập hay không gia nhập vào một tôn giáo làhoàn toàn thuộc quyền cá nhân của họ. Tất cả các vị thầy lớn trong thời cổ xưa,chẳng hạn như Đức Phật, Mahavira, Jésus, Mahomet, không có vị nào thành côngtrong việc khai tâm cho hết tất cả mọi người. Chưa hề có ai làm được việc ấy.Sự kiện gán cho những người không tin là vô thần cũng chẳng hề hấn gì. Một sốcác học giả Tây phương xem những người Phật giáo là vô thần, vì lý do họkhôngtin vào một vị sáng tạo. Cách hiểu như thế đôi khi bắt buộc tôi phải chọn nhữngchữ khác chẳng hạn như chữ « cực đoan » để chỉ định những người không tin gìcả. Tôi gọi họ là những người « không tin cực đoan », bởi vì chẳng nhữnghọkhông tin vào một tôn giáo nào hết mà đồng thời họ lại tin chắc chắn mộtcáchquả quyết là bất cứ một hình thức tâm linh nào cũng đều vô ích. Chúng taphảitự nhắc nhở để nhớ rằng những kẻ đó cũng đều là những thành phần của nhân loại,và cũng như tất cả kẻ khác, họ cũng muốn được hạnh phúc và sống một cuộcsốngthanh thản và êm đềm. Chính đó mới là điều quan trọng.

Theo ý tôi, chẳng có gìlà xấu nếu muốn làm một kẻ không tin, nhưng một khi đã là thành phần củagiốngngười, thì họ đều có nhu cầu về thương yêu và lòng từ bi như nhau. Đấy là nhữnggì thiết yếu nhất trong những lời giảng huấn của các truyền thống tôn giáo. Nếukhông có từ bi thì ngay cả những người tin vào tôn giáo cũng có thể trở thànhnhững người gây ra tai hại. Hơn nữa, dù ta tin hay không tin, thì sự tu tập cănbản vẫn thuộc vào lãnh vực của tim ta. Theo tôi, từ bi và tình thương yêu làtôn giáo toàn cầu. Tất cả mọi người đều cần đến những thứ ấy vì chúng mang lạicho ta sức mạnh nội tâm, niềm hy vọng và sự an bình trong tâm thức. Từ bi vàtình thương yêu quả thật cần thiết cho tất cả mọi người.

Như tôi đã nói đến trênđây, một vài anh em và chị em người Thiên chúa giáo, kể cả những người tu hànhhay thế tục, đã nói với tôi là họ từng sử dụng các phương pháp Phật giáođểphát huy lòng từ bi cũng như đức tin Thiên chúa giáo của chính họ. Tôi vẫnthường nhắc nhở các bạn hữu Tây phương rằng tốt hơn hết cứ giữ lấy tôn giáotruyền thống của mình. Thay đổi tôn giáo không phải dễ và đôi khi lại cóthểgặp những chuyện rối rắm.

Nhưng đối với những ai thấyrằng con đường Phật giáo hữu hiệu và phù hợp hơn với cách suy nghĩ của mình thìkhi đó mới nên đắn đo một cách nghiêm chỉnh về việc này. Và một khi đã hoàntoàn tin chắc là Phật giáo phù hợp với mình, thì lúc đó cứ đến với Phậtgiáo, một cách hoàn toàn tự do không có sự ép buộc nào. Nhưng dù sao, sau đâylà những gì không được phép quên : đôi khi vì muốn biện minh cho sự cải đạo củamình khi chọn một đức tin mới, một vài người có thái độ chỉ trích tôn giáo haytruyền thống trước đây của họ. Tôn giáo cũ trước đây dù không còn phù hợp vớilòng tin của họ nữa, nhưng vẫn hữu ích cho nhân loại. Biết công nhận quan điểmvà quyền hạn của kẻ khác cũng như những giá trị trong truyền thống của kẻ khác,có nghĩa là quý vị phải tiếp tục tôn vinh tôn giáo trước đây của quý vị.Điềunày thật hết sức quan trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4932)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5063)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4428)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4088)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4685)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4149)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6948)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]