Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lòng Từ Bi bao quát

24/12/201009:42(Xem: 12182)
Lòng Từ Bi bao quát

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾNHẠNH PHÚC
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: WisdomPublications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Pressesdu Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việtdịch

3
LòngTừ Bi bao quát

Tôi tin rằng trong bấtcứ một cấp bậc xã hội nào – gia đình, quốc gia hay quốc tế –, chìa khoá của mộtthế giới hạnh phúc và hài hoà đều liên hệ đến việc thực thi lòng từ bi. Khôngcần phải gia nhập một tôn giáo nào, cũng không cần phải tôn thờ một hệ tư tưởngđặc biệt nào cả, chỉ cần mỗi cá nhân trong chúng ta biết phát huy những phẩmtính con người. Theo quan điểm của tôi, trau dồi hạnh phúc cá nhân có thể gópphần một cách sâu xa và hữu hiệu để biến cải chung cho cả tập thể nhânloại.

Tất cả chúng ta đều cầnđến tình thương, hiểu được điều ấy sẽ giúp ta nhận thấy bất cứ ai ta gặpđượcdù trong hoàn cảnh nào cũng đều là anh em hay chị em với ta. Dù đấy chỉ là mộtngười mà ta mới gặp lần đầu cũng thế, ngoài quần áo đang mặc trên người và tínhtình ra, thì chẳng có một sự khác biệt thật sự nào giữa họ và ta. Vì thếthậthết sức phi lý khi dừng lại trên những khác biệt bên ngoài, trong lúc bản thểcủa mỗi người trong chúng ta đều như nhau.

Những lợi ích khi biếtvượt lên trên sự phân biệt nông cạn đó sẽ càng nổi bật hơn khi ta biết nhìn vàovị trí của ta một cách bao quát hơn trong lãnh vực của hành tinh này. Nhân loạichỉ có một, và hành tinh nhỏ bé này là nơi trú ngụ duy nhất của nhân loại. Đểcó thể bảo vệ môi trường chung, mỗi người trong chúng ta cần phải cảm thấy sứcmạnh của tình yêu thương hướng đến kẻ khác và lòng từ bi toàn cầu. Chỉ có thứxúc cảm duy nhất đó mới có thể xoá bỏ những quyền lợi ích kỷ kích động conngười lường gạt nhau và khai thác lẫn nhau. Một quả tim mở rộng và thànhthậtđương nhiên sẽ giúp cho ta tự tin vào những khả năng của ta, và ta sẽ không còne sợ kẻ khác nữa.

Sự cần thiết phải có mộtkhông khí cởi mở và hợp tác trên bình diện quốc tế ngày càng khẩn cấp. Vào thờiđại của chúng ta, kinh tế không còn giới hạn trong lảnh vực gia đình và kể cảtrên bình diện quốc gia. Từng thành phần quốc gia cho đến toàn thể một lục địađều lệ thuộc chặt chẽ với nhau. Vì thế, nếu muốn phát triển kinh tế của mình,mỗi quốc gia phải quan tâm đến kinh tế của các nước khác. Dù sao đi nữa khichung cuộc, kinh thế của các nước khác cũng sẽ gây tác động đến chính quốc giacủa mình. Để có thể đối đầu với những tình thế đột phát trong thế giới tân tiếnngày nay, bắt buộc ta phải chấp nhận một sự biến cải từ cội rễ cách suy nghĩ vànhững phản ứng quen thuộc của ta. Càng ngày ta càng thấy rõ hơn là một nền kinhtế muốn tồn tại phải dựa vào trách nhiệm toàn cầu, đúng với ý nghĩa trung thựccủa nó. Có lẽ chúng ta đều đồng ý với nhau về những điều trên đây, có đúng thếhay chăng ? Đấy không phải đơn thuần là một lý tưởng tôn giáo mang tính cáchthiêng liêng hay đạo đức, nhưng đó là thực trạng hiện nay về sự hiện hữucủanhân loại.

Khi biết suy nghĩ sâu xata sẽ nhận thấy bất cứ nơi nào trên thế giới này cũng đều cần đến thật nhiều từbi và lòng nhân ái. Điều ấy càng nổi bật hơn nữa khi nhìn vào tình trạngkinhtế và an sinh trên toàn thế giới, hoặc nhìn vào sự tương quan về các biến cốchính trị và quân sự hiện nay. Ngoài vô số khủng hoảng về xã hội và chính trị,thế giới này còn gánh chịu những chu kỳ thiên tai ngày càng nặng nề. Chúng tađều chứng kiến trên hành tinh này mỗi năm lại xảy ra càng nhiều những xáo trộntrầm trọng về khí hậu, kéo theo những hậu quả nặng nề về môi sinh. : mưalũ gâyra ngập lụt trong một số quốc gia ; trong khi các quốc gia khác lại thiếu mưa,gây ra hạn hán và hủy hoại mùa màng. Nhưng cũng may, khắp nơi trên thế giớingươờ ta đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của môi sinh. Ta phải hiểu rằngviệc bảo vệ môi sinh liên hệ trực tiếp đến sự sống còn của nhận loại. Với tưcách con người, ta phải tập kính trọng tất cả những thành phần trong giađìnhnhân loại, từ người láng giềng cho đến bạn bè,... Từ bi, thương yêu, vị tha vàvà tình thân hữu không những chỉ là chìa khoá giúp sự nẩy nở của con người, màcòn góp phần để bảo vệ sự tồn vong của hành tinh này.

Sự thành công hay thấtbại của nhân loại trong tương lai tùy thuộc trước hết vào ý chí và quyếttâmcủa thế hệ hôm nay. Nếu chính chúng ta không biết xử dụng ý chí và trí thôngminh của chính mình, thì chẳng còn ai khác hơn nữa đứng ra bảo đảm tươnglaicho thế hệ về sau. Đó là sự thật không tránh né được. Chúng ta không thểnào đổhết lỗi lầm lên những nhà chính trị hay những người trực tiếp chịu tráchnhiệmvề các biến cố xảy ra ; chúng ta phải nhận lảnh một phần trách nhiệm cá nhân.Chỉ khi nào mỗi người đều biết ý thức bổn phận cá nhân của mình thì khi đó hànhđộng mới xảy được. Lên tiếng và phản đối không đủ. Thay đổi thực sự phảixuấtphát từ bên trong, từ mỗi cá nhân, sau đó từng cá nhân sẽ cố gắng góp phần vàosự an vui của cả nhân loại. Nhân ái không phải chỉ là lý tưởng tôn giáo ;đó lànhu cầu không thể thiếu sót của toàn thể nhân loại.

Lịch sử đã chứng minhcho thấy sức mạnh của con tim có thể góp phần để thực hiện những công trình dânluật, những hoạt động xã hội, giúp giải thoát con người trên phương diệnchínhtrị lẫn tôn giáo. Những nghĩa cử và động cơ thúc đẩy chân thật không phải là củariêng của tôn giáo : những thứ ấy nằm trong tầm tay của tất cả mọi người, đó làsự chăm lo cho kẻ khác, cho những người chung quanh, cho kẻ nghèo khó vàthiếuthốn. Tóm lại, những phẩm tính ấy phát xuất từ sự âu lo và mối quan tâm sâu xavề sự an vui của kẻ khác. Nhiều công trình thúc đẩy bởi lòng nhân ái nhưvừa kểđã đi vào lịch sử như những công trình hữu ích góp phần tích cực trong việcphục vụ cho nhân loại. Ngày hôm nay, khi nghĩ đến những công trình lịch sử ấy,ta sẽ cảm thấy trong lòng tràn ngập hân hoan và hạnh phúc, dù cho chúng đãthuộc vào quá khứ và chỉ còn lưu lại những kỷ niệm mà thôi. Khi nhớ đến mộtngười nào đó đã từng thực hiện được một nghĩa cử cao cả, ta cảm thấy kính mếnhọ vô cùng. Nhưng cũng đừng quên là ngay trong thế hệ của chúng ta, vẫn cónhững tấm gương đáng cho ta ngưỡng mộ.

Nhất định, lịch sữ cũngtràn ngập những kẻ vi phạm vào những hành hành vi hung bạo tệ hại nhất :chémgiết và tra tấn đồng loại, tạo ra cảnh đày đọa và những nỗi thống khổ không thểtả cho vô số con người. Những thảm trạng đó phản ảnh khía cạnh tối tăm của giatài nhân loại. Những thứ đó chỉ có thể bộc phát từ hận thù, hung dữ, ganh ghétvà sự tàn nhẫn thúc đẩy bởi lợi lộc. Thực ra, lịch sử thế giới là những gìtượng trưng cho trí nhớ tập thể, ghi chép lại những hậu quả phát sinh từnhữngchủ tâm mang tính cách tiêu cực hay tích cực của con người. Tôi nghĩ rằng nhữngđiều trình bày trên đây đã đủ minh bạch. Khi nhìn vào lịch sử, ta sẽ nhận rarằng nếu muốn đem đến một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc hơn, ta phải quan sátchính tâm thức ta đang trong lúc này và tự đặt câu hỏi xem một thể dạng tâmthức như thế sẽ đem đến cho ta một cuộc sống ra sao trong tương lai. Không nênkhinh thường tác động ngấm ngầm của những thái độ tiêu cực.

Từ bi là giải pháp hoágiải sự xung đột

Vì chủ trương toàn cầuhoá, nên sự hợp tác trở nên thật hệ trọng, nhất là trong các lãnh vực kinh tếvà giáo dục. Phong trào thống nhất Âu châu đã giới hạn ảnh hưởng của quan niệmcho rằng những dị biệt giữa các quốc gia là những gì không thể giải quyết được.Tôi cho điều ấy hết sức tuyệt vời và đúng lúc. Tuy nhiên, sự hợp tác chặt chẽnhư vừa kể giữa các quốc gia không phải do lòng từ bi hay đức tin tôn giáo ápđặt, mà chỉ đơn giản phát xuất từ nhu cầu. Xu hướng nghiêng về một thứ lương tâmtập thể ngày càng phát hiện rõ rệt hơn trong thế giới ngày nay, và dưới áp lựccủa các biến cố xảy ra, sự tương quan chặt chẽ kéo mọi người đến gần vớinhauđã trở thành một yếu tố không thể thiếu sót cho sự tồn vong của tất cả chúngta. Khái niệm về trách nhiệm toàn cầu dựa trên lòng từ bi và tình huynh đệ cũngvậy, có phải đấy là những gì hết sức khẩn thiết hay chăng ? Thế giới nàylà mộtsân khấu phơi bày những xung đột mang tính cách ý thức hệ, tôn giáo và cả tronglãnh vực gia đình. Xung đột dựa vào sự kiện người này thích điều này nhưngngười bên cạnh lại thích thứ kia. Nhưng nếu ta thử tìm kiếm nguyên nhân sinh ravô số những xung đột, thì ta cũng sẽ thấy có vô số nguyên nhân, và hầu hếtnhững nguyên nhân ấy lại nằm nội tâm của mỗi con người chúng ta.

Nếu muốn tìm hiểu nguồngốc của những nguyên nhân gây ra xung đột, thì hãy nên xét đoán khả nănghợptác của ta đem đến sự hài hoà trước đạ. Tất cả mọi nguyên nhân đều tươngđối.Nếu có vô số mầm móng gây ra xung đột, thì cũng có vô số mầm móng giúp cho sựhợp tác và hài hoà. Đã đến lúc phải quan tâm nhiều hơn nữa đến sự hợp nhất. Vềđiểm này, cần phải kêu gọi đến tình thương yêu giữa con người và sự phântíchkiên nhẫn dựa vào lòng từ bi.

Các quan điểm thuộc về ýthức hệ hoặc về tôn giáo của ta có thể không giống với kẻ khác. Nhưng nếu tabiết kính trọng quyền của kẻ khác và biết bày tỏ lòng từ bi của ta đối với họmột cách chân thật, thì những quan điểm giữa ta và họ dù không giống nhau cũngchẳng hề gì. Đấy chỉ là những điều thứ yếu. Nếu như họ tự tin vào quan điểm củachính họ và rút tỉa được lợi ích, thì đấy là hoàn toàn trong quyền hạn của họ.Ta phải biết kính trọng và chấp nhận trường hợp có thể có những quan điểm khônggiống nhau trong cuộc sống. Trong lãnh vực kinh tế cũng vậy, những kẻ cạnh tranhvới ta cũng cần phải thu hoạch lợi nhuận trên thi trường, vì họ cũng nhưta,tất cả đều muốn sống còn. Khi biết nhờ vào lòng từ bi, tầm nhìn của ta cũngtheo đó mà mở rộng, tôi nghĩ rằng sự sống nói chung cũng vì thế mà trở nên dễdàng hơn. Vậy trong trường hợp này, chìa khoá vẫn là lòng từ bi.

Giải trừ vũ khí

Trên một quan điểm nàođó, tình trạng toàn cầu có phần nào cải thiện. Chiến tranh lạnh giữa haikhốiXô viết và Hoa kỳ đã chấm dứt, giờ đây thay vì đi tìm những kẻ thù mới, tốt hơnchúng ta nên nghĩ đến việc giải trừ chiến tranh trên hành tinh này, hay ít racũng nên suy tư về một ý niệm nào đó trong việc giải trừ vũ khí, và ngồilạivới nhau để thương thảo một cách nghiêm túc. Tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở nhữngngười bạn Mỹ của tôi : « Sức mạnh của các bạn không phải là do các thứ vũ khíhạch nhân, mà phát xuất từ những tư tưởng vĩ đại của tổ tiên các bạn trong lãnhvực tự do và dân chủ ».

Trong dịp tôi đến Hoa kỳvào năm 1991, tôi có gặp cựu tổng thống George Bush. Vào thời kỳ đó, chúng tôicó bàn thảo với nhau rất nhiều về trật tự thế giới và tôi có nói với ôngta nhưsau : « Một trật tự mới trên thế giới thấm đượm từ bi sẽ là một thứ trậttựtuyệt vời. Nhưng trái lại, tôi không thể hình dung được bất cứ một thứ gì lợiích trong một trật tự mới cho thế giới này khi mà lòng từ bi không có ».

Tôi nghĩ đã đến lúc cầnphải giải trừ vũ khí và phải nêu lên việc này. Sự đổ vỡ của cựu Liên bang Xôviết đã mở ra một con đường đưa đến đến việc giải trừ vũ khí và lần đầu tiên đãcho thấy các khí giới hạch nhân được ngưng sản xuất. Theo tôi, mục đích củachúng ta là giải phóng cho thế giới này – tức hành tinh nhỏ bé của chúngta –tránh khỏi bàn tay chi phối của vũ khí. Điều đó không có nghĩa là loại trừ tấtcả vũ khí. Cần phải giữ lại một số tối thiểu, vì trong số chúng ta lúc nào cũngcó những nhóm người mang ý đồ tăm tối. Nếu muốn cẩn thận và tránh rủi ro, chúngta có thể thành lập một đạo quân cảnh sát quốc tế với sự chỉ huy địa phương, dùcho đạo quân ấy không bắt buộc trực thuộc vào một chính quyền nào cả, nhưngphải đặt dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc, hoặc bất cứ một tổ chức quốc tếnào khác. Làm được như vậy, sẽ không còn một nước nào có vũ khí trong tay,những xung đột vũ trang giữa các quốc gia có thể tránh được, và cũng sẽ khôngcòn nội chiến.

Buồn thay, chiến tranhvẫn còn chiếm giữ một vị thế lớn lao trong lịch sử con người. Tôi nghĩ rằng đãđến thời điểm cần phải thay đổi quan niệm về sự can thiệp. Đối với một sốngười, chiến tranh có nghĩa là vinh quang và cũng là một phương cách để tạo racác vị anh hùng. Quan niệm chiến tranh như thế là một sự lệch lạc. Gần đây,trong một cuộc phỏng vấn, một nhà báo có nêu lên với tôi như sau : « Nhữngngười Tây phương rất sợ chết ; hình như những người Á châu ít e sợ hơn nhiều».

Tôi đã trả lời nữa thậtnữa đùa như sau : « Tôi nhận thấy quan điểm của người Tây phương đặt mộttầmquan trọng quá lớn vào chiến tranh và sức mạnh quân sự. Nhưng một khi đãđề cậpđến « chiến tranh » tức là đã nói đến « cái chết » – không phải những cái chếttự nhiên, mà là những cái chết bằng khí giới. Theo tôi, những người Tây phươngthích chiến tranh đến độ mà chính họ trở thành những người không sợ chết. Đốivới những người Á châu nói chung, và những người Tây tạng nói riêng, thìý nghĩvề bổn phận phải đánh nhau là một thứ gì không thể chấp nhận được ; chúng tôikhông thể nào hình dung nổi chiến tranh, bởi vì chiến tranh sẽ chắc chắnđemđến thảm họa, chết chóc, những vết thương đau đớn và những cảnh cơ hàn. Trongtâm thức chúng tôi, ý niệm về chiến tranh mang tính cách vô cùng tiêu cực. Điềuđó chứng minh cho thấy chúng tôi đây, chúng tôi sợ chết hơn quý vị nhiều».

Tiếc thay, vì một số lýdo nào đó, nhiều người vẫn duy trì những ý nghĩ sai lầm về vấn đề chiến tranh.Những ý niệm đó tượng trưng cho một mối nguy hiểm ngày càng trở nên trầmtrọnghơn cho cả cộng đồng thế giới, vì thế chúng ta cần phải nghĩ đến việc giải trừkhí giới một cách nghiêm túc. Tôi cảm nhận được điều ấy trong lúc đang xảy rachiến tranh vùng Vịnh và cả thời gian sau đó. Nhất định, không có ai lạikhôngbất mãn với Saddam Hussein vì ông ta đã phạm vào quá nhiều sai lầm và đãhànhđộng một cách hết sức là tai hại. Quả đúng như thế, nhưng khi đã biết SaddamHussein là một con người độc tài, thì cũng sẽ hiểu rằng một con người độc tàiđương nhiên là một kẻ gây ra tai hại. Tuy nhiên, nếu không có sức mạnh quân sựvà không có khí giới, làm thế nào ông ta có thể đóng vai trò của một kẻ độctài. Ai giúp khí giới cho ông ta ? Chính là một số quốc gia Tây phương, cácquốc gia ấy không hề quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra. Những con buôn khí giớicũng phải nhận lảnh một phần trách nhiệm trong đó.

Chỉ biết nghĩ đến tiềnbạc và lợi lộc do việc buôn bán khí giới đem đến quả thật là những ý nghĩ vôcùng khủng khiếp. Tôi có gặp một phụ nữ người Pháp đã từng sống nhiều năm ởBeyrouth. Bà hết sức đau buồn kể rằng bà đã thấy tận mắt nhiều người trong túinhét đầy khí giới đứng bán trong một khu phố, và đồng thời mỗi ngày lại cónhững kẻ vô tội bị thảm sát trong một khu phố khác bằng những thứ vũ khíấy.Song song với những thảm trạng đó, phía bên kia của địa cầu, một số người tậnhưởng một một cách phè phởn trên số tiền lợi nhuận do việc buộn bán vũ khí đemđến, trong lúc những kẻ vô tội phải chịu chết bằng những vũ khí tối tân ởnhữngnơi khác. Vậy biện pháp trước tiên phải đem ra thực hiện là chấm dứt việc buônbán vũ khí. Thỉnh thoảng tôi vẫn chế nhạo các bạn hữu Thụy điển của tôi như sau: « Các bạn là một dân tộc tuyệt vời ! Trong cuộc chiến tranh thế giới vừa qua,các bạn giữ thế trung lập và các bạn luôn luôn chủ trương nhân quyền và hoàbình trên thế giới. Thật hết sức cao đẹp ! Nhưng này hãy cẩn thận đấy, các bạnvẫn cứ tiếp tục bán khí giới cho kẻ khác. Các bạn không thấy điều ấy có vẻ hơiđạo đức giả một tí hay sao ? »

Trong khi xảy ra chiếntranh vùng Vịnh, tôi tự hứa rằng tôi sẽ góp sức để phổ biến những ý niệmvề sựgiải trừ vũ khi cho đến cái ngày cuối cùng của cuộc đời tôi. Tôi quyết địnhtrong tương lai, quê hương Tây tạng của tôi sẽ là một vùng hoàn toàn phiquânsự. Và để chuẩn bị cho một vùng phi quân sự, yếu tố chính yếu nhất vẫn là lòngtừ bi của con người.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4932)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5063)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4428)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4088)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4685)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4149)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6948)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]