Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XV: Phát Sinh Trạng Thái Bồ Tát

08/12/201017:02(Xem: 10966)
Chương XV: Phát Sinh Trạng Thái Bồ Tát

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG XV
PHÁT SINH TRẠNG THÁI BỒ TÁT
(GENERATINGBODHICITTA)

Nghi lễ để phát sinhlòng vị tha ao ước được giác ngộ là một nghi lễ đơn giản. Mục đích của nó làxác nhận và làm vững chắc khao khát đạt tới Cõi Phật của chúng ta vì lọi íchcủa mọi sinh linh. Sự xác nhận này rất cần thiết cho việc nâng cao luyện tậplòng từ bi.

Chúng ta bắt đầu nghi lễđó bằng cách hình dung ra một hình ảnh về Đức Phật. Một khi hình ảnh này đã rõnét, chúng ta cố gắng tưởng tượng rằng Đức Phật Shakyamuni đang thật sự hiệnhữu trước mặt chúng ta. Chúng ta tưởng tượng rằng ngài được vây quanh bởi vô sốnhững đệ tử Ấ n Độ xa xưa. Nagarjuna, người đã sáng lập trường Triết học Phậtgiáo Muddle Way cùng những lời giải thích sâu sắc về "sự trống rỗng"; và Asanga, chuyên gia về khía cạnh "bao la" mà chúng ta đã luyệntập cũng có trong số những người vây quanh Đức Phật. Chúng ta cũng tưởng tượngrằng Đức Phật được vây quanh bởi những nhân vật trong 4 truyền thuyết của Phậtgiáo Tây Tạng: Sakya, Gelug, Nyingma và Kagyu. Sau đó chúng ta tưởng tượng rằngmình được vây quanh bởi vô số sinh linh. Ở mức độ này, bạn bắt đầu phát sinhmột tâm hồn vị tha ao ước được giác ngộ, Những người luyện tập có niềm tin mạnhmẽ có thể tham gia vào nghi lễ này đơn giản bằng cách trau dồi một tấm lòng đầynhiệt huyết, thái độ vị tha đối với mọi sinh linh.

BẢY BƯỚC LUYỆN TẬP
(SEVEN LIMBS OFPRACTICE)

Nghi lễ bắt đầu với mộtcuốn sách chứa đựng những lẽ phải trái. Chúng ta tham gia vào nghi lễ này quaviệc suy niệm về những điều cần thiết của bảy bước luyện tập.

BƯỚC THỨ NHẤT: LÒNG KÍNHTRỌNG (HOMAGE)

Bước đầu tiên này, chúngta tỏ lòng tôn kính đối với Đức Phật về những phẩm chất tốt đẹp nơi lời nói,thân thể và tâm hồn của ngài. Chúng ta có thể biểu lộ lòng tin và sự hiến dângcủa mình bằng cách cúi đầu hoặc nằm phục trước hình ảnh Đức Phật mà chúng tatưởng tượng ra.

BƯỚC THỨ HAI:LỄ VẬT(OFFERING)

Bước thứ hai này là"lễ vật". Chúng ta có thể chuẩn bị những lễ vật vật chất hoặc tưởngtượng rằng chúng ta đang dâng hiến những lễ vật quý hiếm cho buổi lễ thần thánhtrước mặt chúng ta. Lễ vật ý nghĩa nhất, thâm thuý và sâu sắc nhất chính làviệc không ngừng rèn luyện tâm hồn của chúng ta, là tất cả những phẩm chất tốtđẹp mà chúng ta đã tích lũy được qua việc tham gia những hành vi đạo đức. Nhữnghành vi của lòng từ bi, những cử chỉ chăm sóc, thậm chí là một nụ cười dành chomột ai đó hoặc biểu hiện của sự quan tâm đến những người bệnh tật đều là nhữnghành vi đạo đức. Chúng ta hiến dâng những điều này và cả những câu nói đạo đức.Một số ví dụ về những câu nói đạo đức, như những lời khen ngợi mọi người, nhữngcâu nói tạo sự yên lòng cho mọi người, những lời an ủi, những lời khuyên… . Tómlại mọi hành vi tích cực mà chúng ta thực hiện qua lời nói. Chúng ta cũng cóthể dâng hiến bằng những hành vi đạo đức trong tâm hồn. Sự tu dưỡng rèn luyệnlòng vị tha, ý thức về sự chăm sóc mọi người, lòng từ bi, những đức tin sâu sắcvà sự hiến mình cho học thuyết của Đức Phật đều có thể là những lễ vật. Chúngta có thể tưởng tượng rằng tất cả những lễ vật trên đều ở hình thức những vậtchất đẹp đẽ và chúng ta đem dâng hiến cho Đức Phật và tuỳ tùng của ngài trướcmặt chúng ta. Chúng ta có thể tưởng tượng trong tâm hồn rằng chúng ta hiến dângtoàn bộ vũ trụ này, những khu rừng, những đồi núi, những cánh đồng cỏ và nhữngcánh đồng hoa, bất chấp chúng có thuộc quyền sở hữu của chúng ta hay không,chúng ta vẫn có thể dâng hiến trong tâm hồn mình.

BƯỚC THỨ BA:XƯNG TỘI(CONFESSION)

Bước thứ ba là việc xưngtội. Yếu tố quyết định của việc xưng tội là chúng ta phải thừa nhận những hànhvi tiêu cực của mình, những tội lỗi mà chúng ta đã gây ra. Chúng ta nên traudồi những ý thức sâu sắc về sự hối lỗi và sau đó hình thành một cách quyết tâmmạnh mẽ rằng về sau không còn dung dưỡng những thái độ, hành vi phi đạo đức nhưvậy nữa.

BƯỚC THỨ TƯ:VUI MỪNG(REJOICING)

Bước thứ tư là việc rènluyện đức vui tươi bằng cách tập trung vào những hành vi đạo đức trong quá khứcủa chúng ta, chúng ta phát triển niềm vui vì những thành tựu của mình. Chúngta phải chắc chắn rằng chúng ta sẽ không bao giờ hối tiếc về những hành vi tíchcực mà chúng ta đã thực hiện,đúng hơn là chúng ta có được niềm vui trong lòngkhi chúng ta thực hiện những hành vi đó . Thậm chí chúng ta nên vui mừng vìnhững hành vi tích cực của mọi người khác, họ là những sinh linh thấp kém hơnchúng ta, yếu ớt hơn chúng ta hoặc thậm chí mạnh mẽ hơn chúng ta hoặc ngangbằng với chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải đảm bảo được rằng thái độcủa chúng ta đối với những hành vi đạo đức của mọi người sẽ không bị lu mờ bởinhững ý thức về sự ganh đua và ghen tị; chúng ta nên cảm thấy và hoàn toàn thánphục và vui mừng vì những phẩm chất tốt đẹp và tài năng của mọi người.

BƯỚC THỨ NĂM VÀTHỨ SÁU:
THỈNH CẦU VÀ VAN XIN(REQUEST AND BESEECH)

Ở những bước tiếp theonày, chúng ta thỉnh cầu những Đức Phật dạy bảo và phổ biến học thuyết Dharma vìlợi ích chung của mọi sinh linh, sau đó chúng ta cầu khẩn họ không tìm kiếm sựbình an nơi Niết Bàn cho riêng mình.

BƯỚC THỨ BẢY:HIẾN DÂNG (DEDICATION)

Bước thứ bảy và là bướccuối cùng là sự hiến dâng. Tất cả mọi hiểu biết, tài năng và những tiềm năngtích cực mà chúng ta đã đạt được qua những bước phía trước và tất cả những hànhvi đạo đức mà chúng ta đã thực hiện đều được hiến dâng cho mục tiêu chủ yếu:đạt được trạng thái Cõi Phật.

Sau khi đã thựchiện bảy bước trên, chúng ta sẵn sàng bắt đầu phát sinh một tâm hồn vị tha mongước được giác ngộ. Tiết thứ nhất của nghi lễ bắt đầu với lễ vật là một động cơthúc đẩy chính đáng:

‘‘Với lòng mong ước giải thoát tất cả mọi sinhlinh’’
(With the wish to freeall beings)

Dòng thứ hai và thứ bahợp nhất với ba nơi nương tựa: Đức Phật, Dharma, Shangha. Lời cam kết tìm kiếmnơi nương tựa cũng được thiết lập trong những dòng này:

‘‘Tôi sẽ luôn tìm kiếm nơi nương tựa’
(I shall always go forrefuge)
‘‘Từ Đức Phật, Dharma và Shanga’’
(to the Buddha, theDharma and Shangha)
Tiết thứ hai chính là sựphát sinh một tâm hồn vị tha mong ước được giác ngộ:
‘‘Chứa chan lòng từ bi và thông suốt’’
(Enthused by wisdom andcompasion)
‘‘Hôm nay, trước sự hiện thân của Đức Phật’’

(Today, in the Buddha’spresence)
‘‘Tôi phát nguyện một tâm hồn mong ước được hoàntoàn giác ngộ’’

( I generate the MindWishing Full Awakening)
‘‘Vì lợi ích của mọi sinh linh’’

(For the benefit of allsentient beings)

Tiết này nhấn mạnh tầmquan trọng của việc kết hợp lòng từ bi và sự thông suốt. Sự giác ngộ không thểlà lòng từ bi màkhông có sự thông suốt hoặc sự thông suốt mà không có lòng từbi. Đặc biệt là sự thông suốt về nhận thức "sự trống rỗng". Có đượcnhận thức hoàn toàn về "sự trống rỗng" hoặc thậm chí một hiểu biếttrong khái niệm tâm hồn về "sự trống rỗng" - giới hạn của sự tồn tạitối tăm của chúng ta, lòng từ bi của chúng ta lại càng mạnh mẽ hơn nhiều. Từngữ "chứa chan" ở đoạn này ngầm chỉ một lòng từ bi sẳn sàng-không cónlà một trạng thái trong tâm hồn nữa.

Dòng tiếp theo,

"Hôm nay, trước sự hiện thân của Đức Phật"
(Today, in the Buddha’spresence)

Ngầm chỉ rằng chúng tađang khao khát đạt tới Cỏi Phật. Cũng có thể hiểu rằng gọi sự chú ý của nhữngĐức Phật trước mặt chúng ta để họ chứng giám sự kiện này khi chúng ta phátbiểu:

"Tôi phát nguyện một tâm hồn mong được hoàntoàn giác ngộ"
(I generate the MindWishing Full Awakening)
"Vì lợi ích của mọi sinh linh"

(For the benefit of allsentient beings)

Tiết cuối cùng đượctrích từ cuốn "Hướng dẫn sống một cuộc đời Bồ Tát" (guide of theBodhisattva’s way of life) của thạc sĩ Ấn Độ Shantideva của thế kỷ thứ 8, là:

"Miễn là vũ trụ tồn tại"
(As long as spaceremains)
"Miễn là loài người tồn tại"

(As long as sentientbeings remain)
"Tôi sẽ tồn tại đến khi đó"

(Untill then, I willremain)
"Và xua tan mọi điều đau khổ của trầngian"

(And dispel the miseriesof the world)

Những dòng này bày tỏmột tình cảm mạnh mẽ. Một vị Bồ Tát phải tự xem bản thân mình như là thuộcquyền sở hữu của mọi sinh linh. Phải hiểu là mọi điều trên thế gian tồn tại làđể được mọi người hưởng thụ và sử dụng, vì vậy nên toàn bộ cuộc đời và sự tồntại của chúng ta phải sẳn sàng vì mọi người. Chỉ khi chúng ta bắt đầu suy nghĩtheo cách trên, chúng ta mới có thể phát sinh được tư tưởng: "Mình sẽ cốnghiến cả cuộc đời mình vì lợi ích của mọi người. Mình sống chỉ để giúp đỡ mọi ngườimà thôi". Những tình cảm mạnh mẽ như vậy sẽ được biểu hiện qua thực tế,qua những hành vi vì lợi ích của mọi người. Ngược lại, nếu chúng ta sống mộtcuộc đời hoàn toàn ích kỷ, cuối cùng chúng ta sẽ không thể nào thực hiện đượcnhững khát vọng vì bản thân chứ đừng nói chi đến việc vì lợi ích của mọi người.

Nếu Đức Phật Shakyamuni,vị Phật trong lịch sử mà chúng ta sùng kính, cũng ích kỷ như chúng ta thì chúngta, đã đối xử với ngày như cách mà chúng ta đối xử với người khác, và có lẽchúng ta đã thốt lên với ngài: "Im đi!!". Nhưng thực ra lại khôngphải như vậy. Bởi vì Đức Phật Shakyamuni hoàn toàn vì mọi người, yêu mến mọingười, chúng ta xem ngài như một thần tượng đáng kính.

Đức Phật Shakya,Nagarjuna và Asanga – những thạc sĩ Ấ n Độ trứ danh và những thạc sĩ Tây Tạngnổi tiếng trong quá khứ, đều đã đạt được sự giác ngộ – kết quả của những thayđổi cơ bản về thái độ đối với bản thân và mọi người. Họ đã tìm nơi nương tựa.Họ đã vì phúc lợi của mọi sinh linh. Họ đã nhận ra lòng ích kỷ và tham lam làhai kẻ thù, là hai nguồn gốc của mọi hành vi phi đạo đức. Họ đã chiến đấu vớihai kẻ thù này và họ đã đẩy lùi được chúng. Kết quả việc rèn luyện của những vịnày là họ trở thành những mục tiêu của lòng ngưỡng mộ và khát khao . Chúng taphải theo gương của họ và phải cố gắng nhận ra được rằng lòng ích kỷ và thamlam của bản thân chính là hai kẻ thù mà mình cần phải trừ diệt.

Vì vậy, trong khi đemnhững tư tưởng này vào tâm hôn và suy ngẫm về chúng, chúng ta đọc ba tiết thơsau đây ba lần:

"Với lòng mong ước giải thoát tất cả mọi sinhlinh
Tôi sẽ luôn tìm kiếmnơi nương tựa

Từ Đức Phật, Dharma vàShanga

Cho đến lúc tôi đượcgiác ngộ hoàn toàn

Chứa chan lòng từ bivà thông suốt

Hôm nay, trước sự hiệnthân của Đức Phật

Tôi phát nguyện mộttâm hồn mong ước được hoàn toàn giác ngộ

Vì lợi ích của mọisinh linh

Miễn làvũ trụ tồn tại

Miễn là loài người tồntại

Tôi sẽ tồn tại đến khiđó

Và xua tan mọi điềuđau khổ của trần gian"

(With the wish to freeall beings
I shall always go forrefuge
To the Buddha, the Dharmaand Shangha
Untill I reach fullenlightenment
Enthused by wisdom andcompassion
Today, in the Buddha’spresence
I generate the MindWishing Full Awakening
For the benefit of allsentient beings
As long as space remains
As long as sentientbeings remain
Untill then, I willremain
And dispel the miseriesof the world)

Đọan thơ này thiếtlập nên buổi nghi lễ để phát sinh một tâm hồn vị tha ao ước được giác ngộ.Chúng ta nên cố gắng suy ngẫm về ý nghĩa của đoạn thơ trên hàng ngày hoặc mỗikhi chúng ta có thời gian. Tôi đã làm như vậy và tôi nhận thấy rằng việc đó rấtquan trọng đối với sự luyện tập của tôi.

Xin cám ơn!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 7133)
Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt.
27/10/2010(Xem: 9979)
Tên gọi của Đức Phật là «Thích-ca Mâu-ni» có nghĩa là «Bậc Tịch tĩnh trong họ Thích-ca», «Trí giả trầm lặng trong họ Thích-ca», chữ Phạn mauni có nghĩa là yên lặng. Phật còn có tên là «Mahamuni» : Maha là lớn, «Mahamuni» là «Bậc yên lặng Lớn lao» hay vị «Đại Thánh nhân của Yên lặng».
27/10/2010(Xem: 9687)
Tôn chỉ Phật giáo là chí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
27/10/2010(Xem: 11480)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
27/10/2010(Xem: 6952)
Vì Sao Cần Phải Niệm Phật? Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung. Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Độ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!
25/10/2010(Xem: 6884)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
23/10/2010(Xem: 8901)
Từ hơn bốn mươi năm nay, chưa bao giờ Việt Nam đứng ra tổ chức một lễ Phật Đản lớn về tất cả mọi mặt: tôn giáo, văn hóa, xã hội, và về cả chính trị như lần này. Nói lớn về cả chính trị là bởi trong ba ngày vừa qua, thủ đô Hà Nội là thủ đô Phật giáo của thế giới.
23/10/2010(Xem: 10116)
Trong kinh Pháp Hoa có dạy: "Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mới xuất hiện ra đời, để mở bày, chỉ dạy chúng sanh giác ngộ và thể nhập vào tri kiến Phật". Giáo pháp của Phật như biển rộng rừng sâu, tuy nhiên cũng có thể tóm thâu trong bốn câu kệ: “Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh kỳ ý Thị chư Phật giáo”.
23/10/2010(Xem: 8921)
"Mưa dầm thấm sâu, sẽ giúp con cháu trong gia đình đến với đạo Phật, thực hành theo lời dạy của đức Phật một cách tự nhiên và bền vững. Điều quan trọng là tự thân của mỗi người cư sĩ Phật tử nên tự nổ lực tinh tiến tu học, cẩn thận ba nghiệp thân miệng ý, làm sao để trở thành một tấm gương sáng cho con cháu noi theo"
22/10/2010(Xem: 7811)
Sự ảnh hưởng sâu rộng của Đức Phật và Tăng đoàn đã làm cho ngoại đạo lo sợ quần chúng sẽ theo Phật và xa rời họ. Do đó, một nhóm ngoại đạo đã suy nghĩ, toan tính âm mưu triệt hạ uy danh Đức Phật. Sau cùng, một nữ đệ tử cuồng tín của họ tên là Tôn Đà Lợi đã chấp nhận hy sinh bản thân cho mục đích đen tối đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]