Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XII: Chín Giai Đoạn Của Việc Thiền Định Duy Trì Điềm Tĩnh

08/12/201016:58(Xem: 10431)
Chương XII: Chín Giai Đoạn Của Việc Thiền Định Duy Trì Điềm Tĩnh

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG XII
CHÍN GIAI ĐOẠN CỦA VIỆC THIỀN ĐỊNH DUY TRÌ ĐIỀM TĨNH
(THE NINE STAGES OFCALM-ABIDING MEDITATION)


Cho dù bạn có thiền địnhvới đối tượng nào hoặc là một phẩm chất của tâm hồn hoặc là một bức ảnh của ĐứcPhật, thì bạn cũng phải trải qua 9 giai đoạn trong quá trình phát triển"duy trì điềm tĩnh".

GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT

Giai đoạn thứ nhất liênquan đến việc đặt tâmtrí vào đối tượng thiền định. Giai đoạn này được gọi là"sự sắp đặt"(placement). Ở giai đoạn này, bạn gặp khó khăn trong việcgiữ tập trung vào đối tượng trong một khoảng thời gian ngắn và sự sao lãng ngàycàng gia tăng. Bạn thường bị tách khỏi đối, đôi khi quên hẳn đối tượng. Phầnlớn thời gian bạn suy nghĩ về những vấn đề khác và bạn phải nổ lực lắm mới cóthể đưa tâm trí của mình quay về với đối tượng.

GIAI ĐOẠN THỨHAI

Khi bạn có khả năng duytrì được sự tập trung của mình vào đối tượng mà bạn đã chọn lựa trong khoảngthời gian vài phút, điều đó có nghĩa là bạn đã bước sang giai đoạn thứ hai.Giai đoạn này được gọi là "liên tục sắp đặt" (continual placement).Sự sao lãng của bạn vẫn còn lớn hơn sự tập trung của bạn rất nhiều nhưng bạnthật sự đã trải qua những giây phút tập trung tinh thần.

GIAI ĐOẠN THỨBA

Cuối cùng bạn cũng cóđược khả năng kềm chế tâm trí của mình ngay lập tức mỗi khi nó trở nên sao lãngvà tái lập tiêu điểm tập trung của tâm trí. Đây là giai đoạn thứ ba của việcluyện tập, có tên là "đặt lại vào vị trí" (re-placement).

GIAI ĐOẠN THỨTƯ

Ở giai đoạn thứ tư, đượcgọi là "sắp đặt chặt chẽ" (close-placement), bạn đã phát huy được sựlưu tâm đến một mức độ mà bạn không đánh mất sự tập trung của mình lên đốitượng.

Tuy nhiên, đây là lúcbạn bị lôi cuốn bởi sự kích động và phân tán sao lãng mạnh mẽ. Biện pháp khángcự chủ yếu của bạn là sự sáng suốt (awareness) nhận biết được rằng mình đangtrải qua sự lôi cuốn đó. Lúc này, có một nguy cơ là những hình thức phân tánsao lãng tinh vi hơn có thể xuất hiện.

GIAI ĐOẠN THỨNĂM

Giai đoạn thứ năm là"rèn luyện" (disciplining). Ở giai đoạn này, sự tĩnh tâm được ứngdụng để nhận ra những hình thức phân tán sao lãng tinh vi của tâm trí. Một lầnnữa, biện pháp kháng cự của bạn là sự sáng suốt nhận biết được những phân tánsao lãng tinh vi đó.

GIAI ĐOẠN THỨSÁU

Ở giai đoạn thứ sáu là"bình yên" (pacification), những phân tán sao lãng tinh vi không cònxuất hiện nữa. Điều quan trọng là bạn phải áp dụng những biện pháp đối khángthích hợp cho sự kích động. Sự tĩnh tâm của bạn phải mạnh mẽ hơn khi những trởngại này mạnh mẽ lên.

GIAI ĐOẠN THỨBẢY

Qua nỗ lực phối hợp liêntục, bạn có thể giữ cho những hình thức sao lãng kích thích tinh vi đó khôngcòn xuất hiện nữa, tâm trí của bạn không còn cần phải cẩn thận quá mức. Lúc nàybạn đã đạt tới giai đoạn thứ bảy, "hoàn toàn bình yên" (throughoutpacification).

GIAI ĐOẠN THỨTÁM

Với những nổ lực banđầu, khi bạn có thể đặt tâm trí của mình vào đối tượng, bạn có thể giữ tậptrung mà không hề mảy may sao lãng hay bị kích động, bạn đã đạt tới giai đoạnthứ tám "tập trung" (single-pointed).

GIAI ĐOẠN THỨ CHÍN

Giai đoạn thứ chín,"yên định" (balanced placement), là khi bạn có thể giữ tâm trí mìnhtập trung vào đối tượng mà không cần phải cố gắng một chút nào cả, trong mộtkhoảng thời gian mà bạn mong muốn. Bạn sẽ đạt được "trầm tĩnh thậtsự" (true calm abiding) sau khi bạn đạt được giai đoạn thứ chín này bằngcách tiếp tục thiền định tập trung vào tiêu điểm cho tới khi bạn có thể dễ dànguốn nắn tâm hồn và thể xác của mình.

Điều quan trọng là bạnphải giữ được sự cân bằng giữa việc luyện tập hàng ngày và việc phân tích. Nếubạn đầu tư quá nhiều vào việc rèn luyện tập trung vào một đối tượng nhất định,khà năng phân tích của bạn có thể bị suy kiệt. Ngược lại, nếu bạn quan tâm quámức vào việc phân tích, bạn có thể huỷ hoại khả năng giữ vững tập trung vào đốitượng trong khoảng thời gian dài. Bạn phải cố gắng tìm ra điểm cân bằng giữaviệc áp dụng "duy trì điềm tĩnh" và "phân tích".

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6519)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21313)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7304)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6903)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13772)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8846)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8144)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8442)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7264)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8359)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]