Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VIII: Thiền Định Về Lòng Từ Bi

08/12/201016:50(Xem: 11169)
Chương VIII: Thiền Định Về Lòng Từ Bi

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNGVIII
THIỀN ĐỊNH VỀ LÒNG TỪBI
(MEDITATING ONCOMPASSION)
LÒNG TỪ BI VÀ SỰ TRỐNGRỖNG (COMPASSION ANDEMPTINESS)

Lòng từ bi mà chúng taphải đạt được xuất phát từ sự thấu đáo về sự trống rỗng (emptiness), bản chấtcơ bản của mọi thực tại (reality). Tại điểm này, sự bao la(vast) và sự sâu sắc(profound) gặp nhau. Bản chất cơ bản này, đã được trình bày ở chương 6, cónghĩa là mọi khía cạnh của thực tại đều không tồn tại cố hữu, mọi sự vật hiệntượng đều không có bản chất đồng nhất. Chúng ta cho là tâm hồn và thể xác củachúng ta tồn tại cố định, từ đó chúng ta có khái miệm về " bản ngã" –"cái tôi". Rồi chúng ta ý thức mạnh mẽ về "bản ngã", bámchặt vào bản chất cố định của mọi sự vật hiện tượng, ví dụ như những phẩm chấtcủa một "chiếc xe" trong một chiếc xe mới mà chúng ta thích. Và kếtquả của nhận thức đó là chúng ta chịu nhũng cảm xúc tức giận và buồn bực khichúng ta không đạt được những gì mà chúng ta muốn : xe, máy tính, và mọi thứ.Chúng ta đã cụ thể hóa những phẩm chất của sự vật hiện tượng mà thực ra chúngkhông có.

Khi lòng từ bi được kếthợp với những hiểu biết rằng mọi đau khổ đều xuất phát từ những quan niệm sailầm về bản chất của thực tại, lúc đó chúng ta đến được nấc thang tiếp theo củacuộc hành trình rèn luyện tâm hồn. Khi chúng ta nhận thấy rằng căn nguyên của mọiđau khổ là nhận thức sai lầm này, nhận thức sai lầm về bản chất không thật sựtồn tại của sự vật hiện tượng, thì khi đó chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta cókhả năng loại trừ được những đau khổ.

Nhận thấy rằng đau khổcủa mọi người là khó có thể tránh khỏi, mọi đau khổ của mọi người đều có thểkhắc phục, thì sự cảm thông của chúng ta về việc họ không thể tự giải thoátchính mình sẽ làm cho chúng ta có được một lòng từ bi mạnh mẽ hơn. Nếu không,cho dù lòng từ bi của chúng ta có mạnh mẽ cách mấy thì nó cũng trở thành thấtvọng, thậm chí là vô vọng.

THIỀN ĐỊNH
VỀ LÒNG TỪ BI VÀ LÒNGYÊU THƯƠNG - TỬ TẾ

(HOW TO MEDITATE ONCOMPASSION AND LOVING – KINDNESS)

Nếu chúng ta thật sựmuốn phát triển lòng từ bi, chúng ta phải bỏ thời gian để mà luyện tập. Chúngta phải cống hiến hết sức và bằng cả trái tim mình để đạt được mục tiêu đó. Nếuchúng ta có thời gian ngồi thiền mỗi ngày thì rất tốt. Như tôi đã gợi ý, khoảngthời gian lúc sáng sớm là tốt nhất cho việc thiền định bởi vì khi đó tâm tríchúng ta rất sáng suốt. Tuy nhiên, để trau dồi lòng từ bi, lúc sáng sớm vẫnchưa đủ, chúng ta phải luyện tập thiền định nhiều hơn như thế. Ví dụ, trongsuốt buổi luyện tập thiền định chính thức của chúng ta, chúng ta cố gắng pháttriển lòng cảm thông và sự gần gũi đối với mọi người. Chúng ta suy niệm vềnhững đau khổ của họ. Và một khi chúng ta có được cảm xúc từ bi thật sự tronglòng, chúng ta nên cố gắng giữ cho tâm hồn mình luôn ở trạng thái như vậy bằngcách sử dụng "thiền định cố định" mà tôi đã mô tả. Làm như vậy giúp chúngta chìm đắm vào việc thiền định. Và khi cảm xúc đó giảm dần, chúng ta lại ápđặt một số lý do để khơi dậy lòng từ bi của mình. Chúng ta lần lượt sử dụngluân phiên hai phương pháp thiền định, giống như công việc của một người thợgốm, tẩm nước rồi tạo dáng, tạo dáng xong rồi lại tẩm nước.

Tốt hơn hết, khởi đầuchúng ta không nên tốn qúa nhiều thời gian vào việc thiền định nghi thức. Chúngta không thể phát sinh được lòng từ bi đối với mọi người chỉ qua một đêm, chúngta cũng không thể phát sinh được lòng từ bi đối với mọi người chỉ qua một thánghoặc một năm. Nếu chúng ta có thể giảm thiểu bản năng vị kỹ của mình và pháthuy lòng quan tâm đến mọi người trước khi chúng ta chết thì có nghĩa là chúngta đã trải qua một cuộc đời đẹp đẽ. Thay vì vậy, nếu chúng ta nôn nóng, thúcđẩy bản thân mau chóng đạt đến cõi Phật (Buddhahood) trong một thời gian ngắn,chúng ta sẽ nhanh chóng chán ngán với việc luyện tập của mình. Nếu chúng ta chỉngồi đó và thực hiện thiền định chính thức vào buổi sáng sớm thì chúng ta sẽgặp phải một sự đối kháng, chính bản thân chúng ta sẽ chán ngán.

LÒNG TỪ BI CAO CẢ
(GREAT COMPASSION)

Việc đạt được trạng tháicuối cùng của Cõi Phật chỉ xảy ra đối với những người phi thường mà trong nhũngkiếp trước họ đã tu luyện và kiếp này họ mới có được cơ hội như vậy. Chúng tachỉ có thể thán phục họ và lấy họ làm gương để phát huy sự bền chí của mìnhthay vì nôn nóng thúc đẩy bản thân. Tốt hơn hết là mỗi chúng ta phải lựa chọncho mình một cường độ luyện tập thiền địmh tương đối, không quá chậm chạp lườibiếng mà cũng không quá nóng vội.

Chúng ta phải đảm bảođược rằng cho dù chúng ta có luyện tập thiền định theo cách nào đi nữa thìchúng ta cũng duy trì được những ảnh hưởng mà việc thiền định tác động lênchúng ta, từ đo ùthiền định hướng dẫn mọi hành vi của chúng ta trong đời sốnghàng ngày. Bằng cách đó, những hành vi mà chúng ta thực hiện ngoài lúc chúng taluyện tập thiền định cũng chính là một phần trong việc luyện tập lòng từ bi.Chúng ta dễ dàng có được sự cảm thông đối với một đứa bé đang nằm trên giườngbệnh hoặc một người có chồng hay vợ qua đời. Chúng ta phải cố gắng mở rộng tấmlòng của mình đối với những người mà chúng ta hay đố kỵ và ganh tị với nhữngngười đang sống một cuộc đời nhung lụa giàu sang. Hiểu rõ bản chất đau khổ quanhững buổi thiền định, chúng ta tự nhiên phát sinh được lòng từ bi đối vớinhững người như vậy. Cuối cùng, chúng ta nên trải lòng từ bi của mình ra vớitất cả mọi người theo cách này, nhận ra rằng mọi hoàn cảnh của họ luôn luônkhông ngoài phạm vi của vòng luẩn quẩn của cuộc đời. Theo cách này, mọi tácđộng qua lại(interactions) với mọi người đều trở thành tác nhân làm cho lòng từbi của chúng ta thêm sâu sắc. Đây chính là cách chúng ta giữ cho lòng mình luônrộng mở trong đời sống hàng ngày.

Lòng từ bi chân thậtmang một sức mạnh rất mảnh liệt và mang tính tự phát giống như tình yêu thươngcủa một bà mẹ khi chăm sóc đứa con của mình đang nằm trên giường bệnh. Qua nămtháng, lòng quan tâm chăm sóc của bà mẹ dành cho đứa con thấm nhuần và ảnhhưởng lên mọi suy nghĩ và hành động của bà. Đây chính là thái độ đối với mọingười mà chúng ta cần phải trau dồi. Khi chúng ta có được thái độ này, chúng taphát sinh "lòng từ bi cao cả".

Một khi chúng ta phátsinh được lòng từ bi cao cả và lòng yêu thương – tử tế ,đồng thời trái tim củachúng ta được khuyến khích bởi những suy nghĩ vị tha, lúc đó chúng ta phải cốnghiến hết mình cho việc giải thoát mọi người khỏi những đau khổ mà họ phải gánhchịu trong cuộc sống luân hồi, cái vòng luẩn quẩn của việc sinh ra – chết đi –rồi lại được sinh ra mà tất cả chúng ta đều bị giam hảm trong đó. Đau khổ củachúng ta không giới hạn trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Theo quan điểmcủa Phật giáo, hoàn cảnh hiện tại của chúng ta – loài người – là tương đối dểchịu. Tuy nhiên chúng ta sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong tương lai nêu chúngta sử dụng một cách sai trái cơ hội hiện tại này. Lòng từ bi giúp chúng ta chếngự được những suy nghĩ ngạo mạn và ích kỹ. Chúng ta hưởng niềm hạnh phúc caocả và không bao giờ đi tìm hạnh phúc hay sự cứu vớt linh hồn cho riêng mình.Chúng ta liên tục phân đấu phát huy và rèn luyện tâm hồn cũng như đạo đức củachúng ta. Với lòng từ bi như vậy, cuối cùng rồi chúng ta sẽ tích luỹ được mọiđiều kiện cần thiết để đạt được sự giác ngộ hoàn toàn. Vì thế chúng ta cần phảitrau dồi lòng từ bi của mình ngay từ lúc khởi đầu việc luyện tập tâm hồn mình.

Đến đây chúng ta đã biếtđược những phương pháp rèn luyện giúp chúng ta chế ngự được những thái độ cư xửsai trái. Chúng ta đã thảo luận về nguyên tắc hoạt động của tâm hồn và nhữngphương pháp mà chúng ta tác động lên tâm hồn. Để có được lòng từ bi và lòng yêuthương – tử tế, chúng ta chẳng cần phải ứng dụng một phương pháp bí ẩn nào cả.Chúng ta phải rèn luyện tâm hồn một cách khéo léo với sự kiên tâm trì chí vàchúng ta sẽ nhận thấy rằng lòng quan tâm của chúng ta dành cho mọi người ngàymột tăng lên.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6520)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21314)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7305)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6903)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13779)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8846)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8144)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8443)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7264)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8359)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]