Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VII: Lòng Từ Bi

08/12/201016:49(Xem: 10711)
Chương VII: Lòng Từ Bi

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG VII
LÒNG TỪ BI
(COMPASSION)

Lòng từ bi là gì? Lòngtừ bi là lòng ao ước sao cho tất cả mọi người không phải gánh chịu đau khổ. Qualòng từ bi, chúng ta khát khao đạt tới sự giác ngộ. Qua lòng từ bi, chúng tahứng thú tham gia vào việc luyện tập đức hạnh dẫn dắt chúng ta đến với Cõi Phật(Buddhahood).Vì thế, chúng ta phải cống hiến hết mình để phát triển lòng từ bi.

LÒNG CẢM THÔNG
(EMPHATHY)

Bước đầu tiên để có đượcmột tấm lòng từ bi, chúng ta phải phát triển sự thông cảm và gần gũi của chúngta đối với mọi người. Chúng ta phải thấu hiểu được mọi mức độ đau khổ của họ.Chúng ta càng gần gũi với một người nào đó, chúng ta càng thấy rằng những đaukhổ mà người đó đang phải gánh chịu là "không thể chịu được". Sự gầngũi mà tôi nói ở đây không phải là sự gần gũi về thể xác, cũng không nhất thiếtphải là sự gần gũi về tình cảm. Đó là cảm xúc về trách nhiệm, về sự quan tâmđến với mọi người. Để phát huy sự gần gũi như vậy, chúng ta phải yêu mến mọingười. Chúng ta phải ý thức được rằng sự gần gũi giúp mọi người cảm thấy an tâmvà hạnh phúc hơn. Chúng ta phải nhận thấy rằng mọi người sẽ tôn trọng chúng tabiết bao một khi chúng ta đối xử với họ bằng một thái độ nồng ấm. Chúng ta phảichiêm nghiệm về những khuyết điểm của lòng kiêu ngạo, nhận thức được rằng lòng kiêungạo chỉ làm cho chúng ta đối xử theo chiều hướng phi đạo đức và nhận ra rằngcủa cải của cha mẹ chúng ta đã chiếm mất một phần lớn ưu thế của những ngườikhông may mắn như thế nào.

Chúng ta phải chiêmnghiệm về lòng tốt của mình dành cho mọi người. Điều này cũng là thành quả củaviệc đào luyện lòng cảm thông. Chúng ta phải nhận ra rằng của cải của chúng tathật sự phụ thuộc vào sự chung sức của mọi người. Mọi thành quả trong cuộc đờinày đều do mọi người góp sức làm việc tích cực mà ra. Khi chúng ta nhìn xungquanh mình, căn nhà mà chúng ta ở, con đường mà chúng ta đi, quần áo mà chúngta mặc, thức ăn mà chúng ta ăn; chúng ta phải ý thức được rằng tất cả những thứnày đều do mọi người làm ra. Không có thứ gì tồn tại cho chúng ta hưởng thụ vàsử dụng mà không xuất phát từ lòng tử tế của những người vô danh dành cho chúngta. Khi chúng ta suy niệm theo cách này, lòng cảm kích mà chúng ta dành cho mọingười tăng lên, cả lòng cảm thông và sự gần gũi của chúng ta đối với mọi ngườicũng tăng lên.

Chúng ta phải cố gắng ýthức được sự phụ thuộc của chúng ta vào những người mà chúng ta cảm thấy yêuthương. Nhận ra được điều này làm cho chúng ta càng gần gũi họ hơn. Nó đòi hỏisự quan tâm chăm sóc mọi người lâu dài bằng những ánh mắt trìu mến thân thương.Chúng ta phải biết được tác động tích cực to lớn của thái độ cư xử thân thiệncủa mình. Khi chúng ta kháng cự lại thái độ ngạo mạn kiêu căng của mình, chúngta có thể thay thế vào đó là một thái độ tôn trọng mọi người.

Một điều nữa là chúng takhông nên mong đợi thái độ của mình đối với mọi người có thể thay đổi nhanhchóng.

NHẬN RA ĐAU KHỔ CỦA MỌI NGƯỜI
(RECOGNIZING THESUFFERING OF OTHERS)
Sau khi phát triển lòngthông cảm và sự gần gũi, việc rèn luyện quan trọng tiếp theo trong quá trình tudưỡng lòng từ bi của chúng ta là việc hiểu biết tường tận bản chất của đau khổ. Lòng từ bi của chúng ta đối với mọi người phải xuất phát từ hiểu biết vềnhững đau khổ của mọi người. Một điều rất rõ ràng của quá trình suy ngẫm về đaukhổ đó là nó có khuynh hướng trở nên mạnh mẽ và hiệu quả hơn khi chúng ta tậptrung vào chính đau khổ của chúng ta rồi sau đó mở rộng sang đau khổ của mọingười. Lòng từ bi của chúng ta đối với mọi người tăng lên khi sự nhận biết củachúng ta về đau khổ của mọi người tăng lên.

Tất cả chúng ta đươngnhiên có thiện cảm đối với những người đang gánh chịu những đau khổ về bệnh tậthoặc đau khổ khi mất mát người thân. Đây là một loại đau khổ, theo Phật giáogọi là đau khổ của đau khổ.

Để có được lòng từ biđối với những người gặp phải những gì Phật giáo gọi là "đau khổ của sự đổithay" thì khó khăn hơn. "Đau khổ của sự đổi thay" xảy ra theo kỳhạn. Nó có thể là sự thích thú về danh tiếng và của cải. Đây chính là loại đaukhổ thứ hai. Khi chúng ta trông thấy mọi người thích thú với những thành côngtrần tục này, thay vì cảm thấy thương xót, bởi vì chúng ta biết chắc rằng niềmvui đó cuối cùng rồi cũng sẽ kết thúc và bỏ lại họ với sự thất vọng chánchường, thường thì phản ứng của chúng ta là cảm thấy thán phục và đôi khi thậmchí là ganh tị. Nếu chúng ta thông hiểu thật sự về đau khổ và bản chất của đaukhổ, chúng ta sẽ nhận ra rằng danh tiếng và của cải chỉ là tạm bợ và niềm vuimà chúng đem lại đương nhiên sẽ kết thúc, làm cho người ta phải đau khổ.

Cũng có một loại đau khổthứ ba sâu sắc hơn, nó là sự đau khổ tinh vi nhất. Chúng ta liên tục phải gánhchịu những đau khổ này, nó là sản phẩm của vòng luẩn quẩn. Bản chất của vòngluẩn quẩn là chúng ta liên tục chịu ảnh hưởng của những suy nghĩ và những cảmxúc tiêu cực. Và khi chúng ta chịu sự ảnh hưởng đó, chính sự tồn tại của chúngta là một hình thức đau khổ. Loại đau khổ này kéo dài suốt cuộc đời chúng ta,quay chúng ta trong cái vòng luẩn quẩn của những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cựcvà những hành vi phi đạo đức. Tuy nhiên, hình thức đau khổ này rất khó nhận ra.Nó không phải là một trạng thái đau khổ rõ rệt mà chúng ta gặp phải ở "đaukhổ trong đau khổ", nó cũng không phải là điều trái ngược của danh tiếngvà của cải như chúng ta gặp phải ở "đau khổ của sự đổi thay". Đau khổtỏa khắp này là loại đau khổ sâu sắc nhất. Nó tràn ngập trong mọi khía cạnh củacuộc đời.

Một khi chúng ta traudồi được sự thông hiểu sâu sắc về 3 mức độ đau khổ này qua sự từng trải củachúng ta, chúng ta dễ dàng tập trung tìm hiểu và nhận ra được 3 mức độ đau khổcủa mọi người. Từ đó chúng ta phát triển lòng mong ước mọi người thoát khỏi sựđau khổ.

Một khi chúng ta kết hợpđược cảm xúc cảm thông của mình đối với mọi người với sự thông hiểu sâu sắc vềđau khổ mà họ gánh chịu, chúng ta có khả năng phát sinh lòng từ bi chân thànhđối với mọi người. Chúng ta phải thực hiện quá trình này liên tục. Chúng ta cóthể so sánh quá trình này với việc chúng ta mồi lửa bằng cách cọ xát 2 viên đávới nhau. Để có thể cháy được, chúng ta biết rằng chúng ta phải duy trì được sựma sát liên tục làm tăng nhiệt độ tới một mức mà gỗ có thể bén lữa. Tương tự,khi chúng ta cố gắng phát triển những phẩm chất tinh thần như lòng từ bi, chúngta phải thường xuyên áp dụng những kỹ thuật cần thiết để đạt được kết quả nhưmong muốn, chứ không phải cứ mãi quanh quẩn với những phương pháp may rũi.

LÒNG YÊU THƯƠNG – TỬ TẾ
(LOVING –KINDNESS)

Vì lòng từ bi là ao ướcmọi người thoát khỏi những đau khổ của mình, lòng yêu thương - tử tế là ao ướcmọi người được hưởng niềm hạnh phúc. Cùng với lòng từ bi, khi rèn luyện lòngyêu thương - tử tế chúng ta cần phải bắt đầu bằng cách tập trung cao độ vàoviệc thiền định của mình rồi sau đó mở rộng phạm vi quan tâm đến mọi người ngàycàng nhiều hơn để cuối cùng thấu hiểu tường tận mọi đau khổ và hạnh phúc củamọi người. Đồng thời chúng ta cũng phải chọn một người trung tính (neutralperson), một người không gây chút cảm xúc gì cho ta cả, làm đối tượng thiềnđịnh của mình. Sau đó chúng ta mở rộng thiền định về bạm bè, những thành viêntrong gia đình và cuối cùng là những kẻ thù của chúng ta.

Chúng ta phải tậptrung thiền định về một cá nhân, sau đó phát huy lòng từ bi và lòng yêu thương –tử tế thật sự dành cho mọi người. Chúng ta phải tập trung thiền định về một cánhân, nếu không chúng ta không thể tập trung thiền định để có được lòng từ bi vàlòng yêu thương – tử tế dành cho mọi người. Khi chúng ta liên kết được việcthiền định của mình với những người mà chúng ta không thích, chúng ta có thểnghĩ: "Anh ta là một ngoại lệ".

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/04/2015(Xem: 8783)
Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.
06/04/2015(Xem: 18388)
Trong mọi khóa lễ, Chư tăng ni, Phật tử đều cầu xin: “Trú dạ lục thời an lành”. Tức ngày đêm hai mươi bốn tiếng an lành. Nhưng an lành là gì? Chiến tranh không phải an lành.
05/04/2015(Xem: 387950)
Vào ngày 15 tháng 02 năm 2015 tại Như Lai thiền tự, thành phố San Diego, miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ; được sự chứng minh của Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Tăng già Khất sĩ Thế giới Thích Giác Nhiên cùng chư Tôn đức chứng minh, Hòa thượng Bổn sư Thích Minh Hồi đã cắt tóc cầu nguyện và chứng minh cho Phật tử Tâm Hoa, thế danh Võ Elizabeth Bích Liên xin xuất gia, ban pháp hiệu là Liên Ngọc và chỉ dạy cô về tịnh xá Ngọc Vân ở Việt Nam làm lễ thế phát xuất gia.
03/04/2015(Xem: 22260)
Ngọc xá lợi là phần di thể của các vị cao tăng Phật giáo sau hỏa táng. Đó là những hạt kích thước nhỏ, có dạng tròn hoặc các dạng khác. Một số hạt nhỏ có thể trông giống ngọc trai hoặc pha lê, với màu sắc khác nhau. Đó là bảo vật của Phật giáo toàn thế giới, cần lưu ý rằng, tất cả những gì thuộc về Phật tổ và các vị Thánh tăng như y bát, tóc, móng tay... cũng được xem là xá lợi. Dân gian vẫn thường đồn thổi về ngọc xá lợi với thực hư lẫn lộn. Chẳng hạn một vị chân tu 64 tuổi đã ngồi thiền 49 ngày rồi viên tịch tại chùa Vĩnh Bình thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình nên có nhiều xá lợi. Còn ngọc xá lợi của Phật tổ thì có công năng kỳ diệu như phát quang, tự di chuyển hoặc có thể phân ra thành các viên ngọc khác.
02/04/2015(Xem: 11980)
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, tôi thường ra một quán cà phê hay tiệm sách gần nhà để ngồi đọc sách. Ở bên này có những tiệm sách lớn, bên trong có hàng bán cà phê với những chiếc bàn nhỏ, chúng ta có thể ngồi uống nước, đọc sách hay viết lách gì cũng được, rất thích và tiện lợi.
01/04/2015(Xem: 8797)
Tôi năm nay 24 tuổi, công việc ổn định và yêu một anh bạn đồng nghiệp, hai chúng tôi dự định ba tháng nữa sẽ làm lễ cưới (lễ hằng thuận) ở chùa. Vừa rồi, tôi đưa anh ấy ra Bắc, nơi chùa chị tôi xuất gia tu học để làm lễ quy y cho anh. Quy y xong, anh được nhà chùa cho tụng kinh, khi tụng xong thì chuyện bất ngờ xảy ra, chồng sắp cưới của tôi xin phép thầy xuất gia. Sự việc xảy ra quá nhanh khiến tôi hết sức bất ngờ, buồn vui lẫn lộn. Nếu anh ấy xuất gia được thì hủy lễ cưới luôn. Thầy bảo sẽ trợ duyên cho anh ấy ở chùa tập sự một năm mới được xuống tóc và gửi đi học. Bây giờ, ngoài việc niệm Bồ-tát Quan Thế Âm ra, tôi chẳng biết làm gì nữa.
31/03/2015(Xem: 8943)
Giới luật và Phẩm Hạnh Huynh Trưởng
31/03/2015(Xem: 18606)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 18912)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 8802)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]