Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một câu chuyện về vô minh

30/11/201017:07(Xem: 7187)
Một câu chuyện về vô minh


Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ
TRONG MỖI CHÚNG TA
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

MỘT CÂUCHUYỆN VỀ VÔ MINH

Đức Phậtcó kể một câu chuyện như sau :

Cómột anh thương gia cưới một người vợ xinh đẹp. Họ sốngvới nhau và sinh ra một bé trai kháu khỉnh. Nhưng người vợlại ngã bịnh và mất sau đó, người chồng bất hạnh dồntất cả tình thương vào đứa con. Đứa bé trở thành nguồnvui và hạnh phúc duy nhất của anh. Một hôm, vì việc buônbán anh phải rời khỏi nhà, có một bọn cướp kéo đếnđốt phá và cướp sạch cả làng, bắt cả đứa con củaanh mang đi, lúc ấy đứa bé mới lên năm tuổi. Khi trở về,trước cảnh tang thương và điêu tàn, anh thương gia đau khổvô ngần. Lúc bới những đống vật liệu cháy dở còn ngổnngang ở nền nhà, anh tìm thấy xác một đứa bé cháy đen.Ngỡ là xác của con mình, anh bứt tóc, đấm ngược than khócthật thảm thương và không sao nguôi ngoa được. Sau đó anhđem xác đứa bé đi hỏa táng rồi lấy một ít tro gói vàomột mảnh lụa quý. Anh đeo gói tro ấy vào người, dù đanglàm việc, đang ăn hay đang ngủ anh cũng không rời gói lụa.Thỉnh thoảng anh vẫn ngồi yên một mình để nhớ và thươngcon, và mỗi lần như thế anh lại khóc thật lâu.


Mộtthời gian sau, một hôm đứa bé trốn thoát được bọn cướp,tìm đường lần mò về làng. Đứa bé tìm được căn nhàmới của cha mình thì lúc ấy đã nữa đêm, nó đập cửaliên hồi. Trong nhà, người cha đang nằm khóc trên giường,gói tro đặt bên cạnh, liền cất tiếng hỏi :


-Ai đấy ?


Đứabé đáp lại :


-Con đây, cha ơi, con của cha đây, mở cửa cho con với !


Tronglúc đang lo buồn và hoang mang, người cha lại ngỡ rằng cókẻ nào muốn trêu chọc, chế nhạo cảnh khổ đau của mình,liền giận dữ và hét to lên :


-Hãy cút đi, cứ để yên cho ta !


Vàrồi anh ta lại tiếp tục khóc, đứa con vẫn tiếp tục đậpcửa. Nhưng người cha nhất định cho rằng đấy không phảilà con mình, vì bên cạnh con mình đang nằm yên trong cái bọclụa quý. Đứa bé thất vọng, đau khổ và bỏ đi. Từ đóhai cha con không còn gặp lại nhau nữa.


Vôminh không phải là một sự kiện thiếu hiểu biết, mà làmột sự hiểu biết sai lạc và lầm lẫn, như trường hợpngười cha đoan chắc tro của con mình đang được gói trongcái bọc lụa quý. Sự hiểu biết sai lạc hay vô minh chínhlà nguồn gốc của khổ đau. Ta hãy lấy một thí dụ trongcuộc sống thường nhật, chẳng hạn một số người có tríthông minh khác thường, chẳng những trí thông minh ấy khônggiúp gì được cho họ, lại còn làm cho họ điêu đứng hơn.Không hẳn sự thiếu hiểu biết gây ra khổ đau, nhưng chínhtrí thông minh sai lạc đã giữ vai trò trực tiếp. Kinh sáchgọi trí thông minh sai lạc là tà kiến.

Tríthông minh của ta bị chi phối bởi vô minh, lèo lái bởi vôminh. Dù cho ta hết sức thông minh đi nữa, nhưng đồng thờita cũng có thể đang lầm lẫn. Trí thông minh giúp ta xác địnhmột cách quả quyết một sự việc nào đó là đúng, nhưngthật sự việc đó là sai. Sự quả quyết như thế là nguồngốc đem đến khổ đau, nhưng ta lại không ý thức đượcđiều ấy. Một trong những thể dạng độc hại và tồi tệnhất trong cuộc sống chính là sự u mê và bất lực khiếnta không nhìn thấy nguồn gốc của khổ đau, giống như sựbất lực và lầm lẫn của người cha trong câu chuyện.

Sựsai lầm, tệ hại và nguy hiểm nhất là sự kiện đánh giáquá thấp vô minh, xem vô minh là một thứ gì ngu xuẩn, thiểncận, lộ liễu và khờ khạo. Vô minh thật ra rất khôn ngoan,khéo léo, cứng đầu, ranh mãnh, nham hiểm và thâm độc, luônluôn tìm cách đánh lừa ta. Vô minh đủ sức làm cho ngườicha khăng khăng ôm cái bọc tro và nhất định không nghe thấytiếng con mình đang kêu khóc ở cửa. Vô minh không thụ độngnhư ta tưởng, mà là một sức mạnh chủ động và tích cực,trong cuộc sống hàng ngày nó xui khiến mỗi người trong chúngta binh vực quan điểm của mình để tranh cãi với nhau, đixa hơn là xô xát và gây chiến với nhau. Trên một cấp bậccao hơn, ta thử quan sát qua lịch sử nhân loại xem có mấynhà lãnh đạo tự cho mình là sai và nhận ra cái vô minh củamình ? Hitler hay Pol Pot ? Bạo chúa Neron hay Tần Thủy Hoàng?...Còn nhiều nữa, và cũng không nên kể ra hết làm gì. Họlà những người không thiếu thông minh, nhưng nếu họ nhậnthấy cái vô minh của họ thì biết đâu chúng ta đã khôngthừa hưởng một thế giới giống như hôm nay. Họa chăngtrong số họ có vua A-dục ?

Trênmột bình diện thấp hơn, hình như mỗi người trong chúngta vẫn thấy hạnh phúc và an tâm khi cài cửa thật chặt,đắp chăn nằm trên giường để ôm lấy cái vô minh củamình, mặc cho sự thực đang ra sức đập cửa để réo gọichúng ta. Hành vi trốn tránh đó tức là biểu hiện của sựbảo vệ « cái ngã ». Mục đích những lời giảng huấn củaPhật là giúp ta nhìn thấy « sự thực tối hậu củamọi hiện tượng », tức là sự quán thấy « thực thể đíchthực » của mọi vật thể và biến cố. Ta nên diệt bỏcái ngã để đủ sức mở cửa đón nhận sự thật, sử dụngchánh kiến và trí tuệ để loại bỏ vô minh, giống như mộtngười cha biết mở cửa để ôm con mình vào lòng.
Bures-Sur-Yvette,01.01.08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4694)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5003)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4508)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3738)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7548)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4741)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6170)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12096)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5346)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]