Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh «Tất Cả Đều Bốc Cháy»

30/11/201017:01(Xem: 9178)
Kinh «Tất Cả Đều Bốc Cháy»


Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ
TRONG MỖI CHÚNG TA
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

KINH «TẤT CẢ ĐỀU BỐC CHÁY »

(ADITTAPARIYAYA-SUTTA)

Dướiđây là một bản kinh ngắn trích từ "Tương ứng bộ kinh"trong "Luật Tạng" mang tên là Adittapariyaya-sutta (Samyutta-nikkayaIV, 19-20; cf. Vinaya-pitaka,1, 36-37). Tiếng Phạn Aditta-pariyayacó nghĩa là Tất cả đều bị thiêu đốt hay bốc cháy. Trongbản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thườngvà vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩntạo ra một cá thể con người. Năm thứ cấu hợp ấy thườngxuyên bốc cháy và không còn lại gì cả, tuy nhiên sự bốcbốc cháy ấy cũng tượng trưng cho nguyên nhân sâu xa nhấtcủa mọi khổ đau mà mỗi con người phải gánh chịu.

Tuynhiên sự vận hành chung của ngũ uẩn cũng đã tạo ra sựsống cho mỗi cá thể con người trong thế giới ta bà, vàsự sống ấy biểu hiện cho một ý chí hay một sức mạnhnào đó. Mỗi con người đều có thể sử dụng ý chí ấyhay sức mạnh ấy để thực hiện những tham vọng cũng nhưnhững đòi hỏi bản năng của chính mình, nhưng mặt kháccũng có thể hướng chúng vào một lý tưởng cao đẹp hơnđể mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự hiện hữu củachính mình.

Bảnkinh này được dịch để tưởng nhớ đến một vị Bồtát vì Đạo Pháp đã tự thiêungày 11 tháng 6 năm 1963.Năm thứ ngũ uẩn tạm thời kết hợp để tạo ra thân xácvà tâm thức của vị Bồ tát ấy đã bốc cháy gần nửathế kỷ nay và không còn lại gì cả. Tuy nhiên hình ảnh ấy,hình ảnh của một vị Bồ tát ngồi im trong lửa đỏ vàgục xuống ở một ngã tư đường vẫn còn lưu lại trongtâm hồn của mỗi người trong chúng ta.

Bảntiếng Việt dưới đây được dịch căn cứ vào bản dịchtừ tiếng Pali sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna trong quyểnSermons du Bouddha (Các bài thuyết giáo của Đức Phật), nhàxuất bản Cerf, 1988, Paris.

Mộtlần, Đức Thế Tôn đang ở tại Tượng Đầu Sơn (Gayasisa),gần Giác Thành (Gaya) cùng với một ngàn đệ tử.

ĐứcThế Tôn thuyết giảng cho các đệ tử như sau :

"Nàycác tỳ kheo, tất cả đều bốc cháy. Và những gì đang bốccháy như thế ? Mắt đang bốc cháy. Các hình tướng vật chấtđang bốc cháy. Tri thức thị giác đang bốc cháy. Sự tiếpxúc giữa mắt và các hình tướng vật chất đang bốc cháy.Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với các hình tướng vậtchất, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phảilà đớn đau cũng không phải là thích thú, thì giác cảm ấyvẫn đang bốc cháy. Này các tỳ kheo, vậy những thứ ấybốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọnlửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, củabịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, củađớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Nàycác tỳ kheo, tai đang bốc cháy. Âm thanh do tai tiếp nhận đangbốc cháy. Tri thức thính giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúcvới những gì do tai tiếp nhận được đang bốc cháy. Cảmgiác phát sinh từ sự tiếp xúc với những gì tai tiếp nhậnđược đang bốc cháy, dù đấy là thích thú hay đớn đau,dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thíchthú, thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy. Vậy những thứấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng nhữngthứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; nhữngthứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua,của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán,của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Nàycác tỳ kheo, mũi đang bốc cháy. Mùi đang bốc cháy. Tri thứckhứu giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa mũi và mùi đangbốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gìdo mũi tiếp nhận, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dùđấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú,thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốccháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấyđang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửacủa hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấybốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnhtật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớnđau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Nàycác tỳ kheo, lưỡi đang bốc cháy. Vị đang bốc cháy. Trithức vị giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa lưỡi vàvị đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc vớinhững gì lưỡi tiếp nhận, dù đấy là thích thú hay đớnđau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải làthích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng nhữngthứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; nhữngthứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua,của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán,của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Nàycác tỳ kheo, thân xác đang bốc cháy. Các vật thể sờ móđược đang bốc cháy. Tri thức xúc giác đang bốc cháy. Sựtiếp xúc giữa thân xác và các vật thể sờ mó được đangbốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gìdo thân xác tiếp nhận được, dù đấy là thích thú hay đớnđau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải làthích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng nhữngthứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; nhữngthứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua,của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán,của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Nàycác tỳ kheo, Tư duy đang bốc cháy. Các vật thể tâm thầnđang bốc cháy. Tri thức tâm thần đang bốc cháy. Sự tiếpxúc của tư duy với các vật thể tâm thần đang bốc cháy.Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì tư duy tiếpnhận được, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấykhông phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thìgiác cảm ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháytừ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đangbốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa củahận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốccháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật,của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau,của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Nàycác tỳ kheo, nếu biết nhìn tất cả mọi thứ theo phươngcách đó, thì một đệ tử sáng suốt sẽ phải kinh tởm mắt,kinh tởm những hình tướng vật chất, kinh tởm tri thức thịgiác, kinh tởm sự tiếp xúc của mắt với những hình tướngvật chất, kinh tởm cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc vớicác hình tướng vật chất, dù đấy là thích thú hay đớnđau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải làthích thú, thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy.

ĐứcPhật tiếp tục trình bày như trên đây đối với tai, âmthanh, tri thức thính giác, sự tiếp xúc và cảm giác ; mũi,mùi, tri thức khứu giác, sự tiếp xúc và cảm giác ; lưỡi,vị, tri thức về vị giác sự tiếp xúc và cảm giác ; thânxác, các vật thể sờ mó được, tri thức xúc giác, sự tiếpxúc và cảm giác. Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảngnhư sau :
"Nàycác tỳ kheo, nếu biết nhìn tất cả mọi thứ bằng phươngcách đó, thì một đệ tử sáng suốt sẽ kinh tởm tư duy,kinh tởm các vật thể tâm thần, kinh tởm tri thức tâm thần,kinh tởm sự tiếp xúc của tư duy với các vật thể tâm thần,kinh tởm giác cảm phát sinh từ sự tiếp xúc với các vậtthể tâm thần ; dù cho đấy là thích thú hay đớn đau, dùđấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú,thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy.

"Khimột đệ tử sáng suốt biết kinh tởm những thứ ấy, thìngười ấy sẽ không còn thèm khát nữa và khi được giảithoát thì sự hiểu biết sẽ hiện ra : "Đây chính là sựGiải thoát", và người ấy sẽ hiểu rằng : "Mọi sự táisinh đều bị hủy diệt, con Đường Đạo hạnh tinh khiếtđược hoàn tất, những gì phải chấm dứt đã chấm dứt,không còn bất cứ thứ gì lưu lại để chờ đợi một sựthực hiện nào nữa".

ĐấngThế Tôn thuyết giảng như trên đây. Sau khi được nghe nhữnglời thuyết giảng của Đấng Thế Tôn, các tỳ kheo đềuvui sướng và hân hoan. Trong khi Ngài thuyết giảng thì tấtcả mọi ô nhiễm trong tư duy của một ngàn đệ tử đềuđược hoàn toàn tẩy xóa.
Bures-Sur-Yvette,29.5.10

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2019(Xem: 6930)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8257)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16507)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8491)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6357)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5556)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7141)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7146)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7747)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
06/05/2019(Xem: 6028)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]