Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Nguyên lí duyên khởi trong giáo pháp Đức Phật

17/11/201017:02(Xem: 6019)
1. Nguyên lí duyên khởi trong giáo pháp Đức Phật


NGUYÊNLÝ DUYÊN KHỞI
TRONG GIÁO PHÁP ÐỨC PHẬT
Hễ nói đến Giáopháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến phápDuyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa). Vìpháp Duyên khởi là nguyên lý cơ bản và thiết yếu của sựgiác ngộ.

Ðức Phật thành Phật là do Ngàichiêm nghiệm hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt của nguyênlý 12 Duyên khởi mà thành tựu.

Trong kinh A-hàm đức Phật nói: "Thếnào là nguyên lý Duyên khởi? Nghĩa là do duyên với Vô minhmà Hành khởi sinh, dù Phật có ra đời hay không ra đời, nguyênlý ấy vẫn thường trú, vẫn an trú trong pháp giới. Như Laitự mình chiêm nghiệm nguyên lý ấy để giác tri, để thànhtựu Vô thượng Bồ-đề, rồi tuyên thuyết, rồi khai thị,rồi hiển phát cho mọi người". (Tạp A-hàm, q.12 tr. 84b ÐTK2).

Do giác ngộ nguyên lý Duyên khởi,đức Phật hiển nhiên trở thành Phật. Nên khi dạy dỗ, giáohóa chúng sanh, đức Phật đã khai thị nguyên lý này qua nhiềudạng thức, qua nhiều cấp độ và qua nhiều phương tiệnsâu cạn khác nhau.

Kinh Pháp Hoa nói: "Chư Phật là đấngtôn kính, đầy đủ trí tuệ và từ bi, biết tất cả phápluôn luôn là không có tự tánh. Phật chủng cũng chỉ từduyên mà khởi. Vì vậy mà tuyên bố Nhất thừa. Sự an trú,sự định vị của tất cả pháp là vốn như thế. Nó vốnlà hình thái thường trú của thế gian, từ đạo tràng biếtmột cách chân xác như thế rồi, đấng Ðạo sư mới tùyphương tiện mà tuyên nói". (Kinh Pháp Hoa tr. 9b ÐTK9).

Giác ngộ một cách chân xác vềnguyên lý Duyên khởi là giác ngộ rằng, tất cả các phápkhông bao giờ sinh khởi cô độc, mà nó sinh khởi trong nguyêntắc tất yếu: "Nếu cái này hiện hữu, thì cái kia hiệnhữu; nếu cái này không hiện hữu, thì cái kia không hiệnhữu. Nếu cái này sinh khởi, thì cái kia sinh khởi. Nếu cáinày không sinh khởi, thì cái kia không sinh khởi".

Toàn bộ Giáo pháp của đức Phậtthuyết giảng chỉ trụ vào điểm này. Và cũng chính ở điểmnày làm nguyên lý phổ biến chung cho sự sinh khởi của tấtcả khí thế gian và tình thế gian.

Khí thế gian là mọi sự kiện hiệnhữu và tồn tại hoàn toàn về vật lý. Tình thế gian làmọi sự kiện hiện hữu và tồn tại gồm đủ cả tâm lývà vật lý, cũng có khi tồn tại thuần về tâm lý.

Tính Duyên khởi đối với tìnhthế gian, hay nói gọn lại nơi con người là Mười hai Duyênkhởi, gồm có Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyênDanh sắc, Danh sắc duyên Sáu xứ, Sáu xứ duyên Xúc, Xúc duyênThọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyênSanh, Sanh duyên Lão tử.

Mười hai Duyên khởi này làm nhânlàm duyên cho nhau, sinh khởi liên tục trong vòng nhân quả,khiến con người bị đắm chìm trong sinh tử luân hồi. Vànhân quả của 12 Duyên khởi này cứ tiếp tục sinh khởi khắpcả ba thời gian tạo thành cả một dòng sông vô tận.

Chẳng hạn, Vô minh và Hành là nhâncủa quá khứ. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ,Hữu là nhân của hiện tại; Sanh, Lão tử là quả của vịlai.

Nhân quả ba đời trong 12 Duyên khởi,cứ cái này làm duyên cho cái kia, cái kia làm nhân cho cái này,cứ như thế sinh khởi cho đến vô cùng vô tận.

Trong 12 Duyên khởi này, mỗi yếutố có thể là nhân, có thể là duyên, và không có yếu tốnào là nhân hoàn toàn hay duyên hoàn toàn.

Chính 12 yếu tố Duyên khởi nàyđã làm nhân làm duyên cho nhau, để sinh khởi và chi phốitoàn bộ sinh mệnh, cũng như đời sống của con người.

Khi nào con người hiểu được 12yếu tố Duyên khởi này và quán chiếu thường trực về chúng,thì khi ấy, tùy theo mức độ sâu cạn của quán chiếu màtầm cỡ giác ngộ được khẳng định.

Kinh Ðại Bát Niết-bàn nói:

"Có bốn hạng giác ngộ về nguyênlý Duyên khởi: Bậc hạ trí quán chiếu mà không thấy đượcPhật tính, và do vì không thấy được Phật tính, nên chỉthành tựu được đạo quả Thanh văn mà thôi.

Bậc trung trí quán chiếu mà khôngthấy Phật tính, và do vì không thấy nên chỉ thành tựu đượcDuyên giác mà thôi.

Bậc thượng trí quán chiếu thậttính có sự thấy hiểu, nhưng không thấu triệt, và do vìthấy hiểu nhưng không thấu triệt, nên chỉ an trú vào địavị Thập trú của Bồ-tát mà thôi.

Bậc thượng trí, quán chiếu thậttính, do vì thấy rõ và quán triệt, nên chứng đắc đạoquả Vô-thượng" (Ðại Bát Niết-bàn kinh - Vol 27, tr. 524b.ÐTK 12).

Nguyên lý Duyên khởi là một thựctại tính (Tathata) là chơn như tính hay còn gọi là Phật tính(Buddhata). Phật tính của giác ngộ. Phật do giác ngộ 12 Duyênkhởi mà thành Phật. Vậy, 12 Duyên khởi là tính ngộ củaPhật.

Bất cứ ở đâu và bất cứ lúcnào, con người giác ngộ được tính ấy, thì lúc đó vàngay đó, con người có thể tự trả lời được câu hỏi,ta là ai? do đâu mà có? và tại sao ta bị khổ đau. Cũng chínhlúc đó, ngay đó, con người có thể tự giải cứu nhữngkhổ đau đang triền buộc lấy chính mình.

Tùy thuận theo 12 Duyên khởi, đâylà điều kiện ắt có và đủ, để con người luân lưu trongsanh tử luân hồi (Samsàra). Hoàn diệt và đình chỉ 12 Duyênkhởi, đây cũng là điều kiện ắt có và đủ, để con ngườidứt bỏ khổ đau, đi đến Niết-bàn (Nirvana).

Ðiều kiện ắt có và đủ hay còngọi là mệnh đề điều kiện (clause condition) của "nếu vàthì"; "thì" luôn luôn phản ảnh rất trung thực đối với"nếu". "Nếu" tác nhân như thế này, "thì" hậu quả sẽ xảyra như thế này; "nếu" tác nhân như thế kia, "thì" hậu quảsẽ xảy ra như thế kia...

Nhân (heru) và quả (phala) gắn liềnvà sinh khởi là do duyên (pràtitya). Nếu thiếu duyên nhân khôngthể nào phát sinh ra quả được.

Trong quá trình sinh diệt để biếnthái từ nhân đến quả và biến thái từ quả trở thànhnhân, thì duyên đã đóng vai trò khá tích cực trong sự quanhệ này.

Duyên, tiếng Phạn gọi là Pratityavà chữ Pratitya đã được Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) giảithích ở trong Màdhyamika như sau: "Utpadyate pratìtyèmàn itìmepratyayah kìla" (Màdhyamika pratyaya parìksa gàtha V). Nghĩa là,do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, nhưng cái này ngườita gọi nó là những duyên.

Duyên hay là pratitya ở trong vănhọc Abhidharma, các luận sư Phật giáo đã phân chia thành nhiềuloại, nhưng sự phân chia có tính thống nhất, giữa các luậnsư, thì duyên (pratitya) gồm có 4 loại như sau:

a. Nhân duyên (Pratyàyàhetu):Tất cả các pháp sinh khởi và tồn tại đều do quan hệ giữanhân và duyên. Nhân (hetu) là năng lực động chính; duyên (pratitya)là điều kiện hỗ tương phụ, để cho năng lực tác độngấy được sinh khởi và hình thành.

b. Ðẳng vô gián duyên (Anantarapratitya):Ðẳng vô gián duyên hay còn gọi là Thứ đệduyên. Nghĩa là tất cả các pháp làm nhân làm duyên cho nhaumột cách liên tục, không bị gián cách.

Hay nói khác đi, pháp trước làmnhân cho pháp sau, pháp sau làm nhân cho pháp trước, các phápcứ tuần tự làm nhân làm duyên cho nhau, mà sanh khởi liêntục, nếu bị cách trở gián đoạn tức là thiếu cái duyênnày, pháp không sanh ra được.

c. Sở duyên duyên (Alambana pratìtya):Sở duyên tiếng Phạn gọi là Alambana; Alambana đi từ độngtừ gốc Lam, có nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào,vướng vào... Như vậy, Alambana là đối tượng để cho cáikhác vin vào, dựa vào...

Alambana hay Sở duyên có thể làthế giới khách quan, pratìtya hay duyên có thể là thế giớinội tại, thế giới khách quan là đối tượng (sở duyên)để cho thế giới nội tại khởi sinh sự nhận thức.

Bất cứ cái gì hàm đủ cả chủthể năng phân biệt (pratìtya) lẫn đối tượng được phânbiệt (alambana), thì cái ấy gọi là Sở duyên duyên (alambanapratìtya).

Hay nói theo trường phái Duy thức(Vijnàptimàtrata Siddhi), cái nào có khả năng dẫn sinh sự nhậnthức và sự nhận thức ấy, mang ảnh tượng tương tợ vớichúng, thì cái ấy gọi là Sở duyên duyên.

d. Tăng thượng duyên (Adhipateyampratìtya):Tăng thượng duyên gồm có thuận duyên và nghịchduyên.

- Thuận duyên: là duyên thuậnchiều để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng từnhân đến quả.

- Nghịch duyên: là duyên đối khánglàm trở ngại sự sinh trưởng của nhân.

Tất cả pháp có thể sinh khởi, tồntại hay hủy diệt, đều lệ thuộc vào bốn duyên này.

Trong bốn duyên, thì Ðẳng vô giánduyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên là biệt tướng,còn Nhân duyên là tổng tướng. Nên khi chúng ta nói nhân duyên,thì có thể hàm đủ cả ba duyên kia.

Tất cả pháp là duyên khởi, thìnhất định không có tự tính (asvabhava), do không có tự tínhnên chúng mới sinh động vô thường (anitya). Vô thường làtính thường trực của các pháp Duyên khởi, tính thườngtrực của các pháp Duyên khởi là tính không có tự tính,do tính không có tự tính nên các pháp luôn luôn sinh thànhvà luôn luôn hủy diệt.

Bởi vậy, 12 Duyên khởi nó cũngkhông có tự tính cho chính nó, nên nó có thể trở thành bấtcứ tính nào. Nếu duyên xấu, nó có thể trở thành tính xấu;nếu duyên tốt, nó có thể trở thành tính tốt.

Do đó, trong 12 Duyên khởi, chúngta có thể thay thế Vô minh bằng chánh kiến, Thức bằng chánhtrí, Hành bằng chánh nghiệp v.v... để đi đến đời sốngcao thượng.

Sở dĩ chúng ta có thể thay thếđược như vậy, vì tự thân của chúng ta là duyên khởi.

Ðứng ở mặt nhận thức chung mànói, nếu chúng ta chiêm nghiệm về nguyên lý Duyên khởi, thìchúng ta có thể thấy được toàn bộ cơ hợp của vũ trụvà chúng ta có thể chuyển đổi vũ trụ tùy theo ý chí cánhân và ý chí cộng đồng.

Ðứng ở mặt nhân sinh mà nói,nếuchúng ta chiêm nghiệm nguyên lý 12 Duyên khởi, chúng ta có thểthấy được chính chúng ta, và chúng ta có thể sửa soạncho chúng ta một cách sống hợp lý.

Và đứng vào lập trường giácngộ mà nói, nếu chúng ta quán sát về nguyên lý Duyên khởi,chúng ta có thể thấy được Phật, vì chúng là phẩm tínhgiác ngộ của Phật, chúng ta có thể thấy được pháp thâncủa Phật, vì Phật lấy pháp làm bản thân và bản thân củapháp là duyên khởi.

Chúng ta quán sát lý Duyên khởi,chúng ta có thể thấy được thực trạng đau khổ của cuộcđời và nguyên nhân phát sinh những đau khổ ấy, có thểnhìn thấy con đường đi đến Niết-bàn và cảm nhận sựtịch tịnh của Niết-bàn.

Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) ở trongTrung quán luận, đã mượn một thành ngữ nổi tiếng củaTrung A-hàm để nói lên ý nghĩa này:

"Thị cố kinh trung thuyết,
Nhược kiến nhân duyên pháp,

Tốc vi năng kiến Phật,

Kiến khổ, tập, diệt, đạo".

(Trung Quán Luận, tr. 334c. ÐTK30)
Tạm dịch:
"Vì thế trong kinh nói,
Nếu thấy pháp Duyên khởi,

Có thể là thấy Phật,

Thấy khổ, tập, diệt, đạo".
Ðức Phật đã thấy pháp Duyên khởibằng hai cách quán chiếu. Ðó là cách quán chiếu lưu chuyểnvà cách quán chiếu hoàn diệt.

Cách quán chiếu lưu chuyển là cáchquán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ nó theo chiều thuận- nghĩa là cái này sinh nên cái kia sinh - vì Vô minh sinh khởinên Hành sinh khởi...

Cách quán chiếu hoàn diệt là cáchquán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ duyên khởi theo cáchđình chỉ và diệt tận. Nghĩa là do cái này diệt nên cáikia diệt. Vì do Vô minh diệt nên Hành cũng diệt...

Do giác ngộ duyên khởi đủ cảhai mặt lưu chuyển và hoàn diệt mà đức Phật thành Phật.

Bất cứ ai, thấy được pháp Duyênkhởi cả hai mặt, người đó có thể thấy Phật, có thểthấy được pháp thân của Phật và ngay trong Duyên khởi cóthể thấy được khổ, tập, diệt, đạo.

Chẳng hạn, quán chiếu 12 Duyênkhởi theo lưu chuyển, đó là cách quán chiếu về khổ vàtập, cách quán chiếu Duyên khởi theo hoàn diệt, đó là quánchiếu về diệt và đạo.

Hay nói theo ngài Uất-lăng-ca, thấyVô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu là thấy Tập đế; thấy Thức,Danh sắc, Lục nhập, Thọ, Sanh, Lão tử là thấy Khổ đế;hủy diệt 12 chi phần của Duyên khởi ấy, là Diệt đế;hiểu biết tính chất như thật của 12 Duyên khởi ấy, làÐạo đế (Duyên sanh luận tr. 468a ÐTK 32).

Như vậy, chúng ta có thể nói, chủyếu của giáo pháp đức Phật chính là pháp Duyên khởi vàpháp Tứ đế cũng chỉ được trình bày qua những giác khác,dễ hiểu hơn của pháp Duyên khởi mà thôi.

Ðối với tất cả loài hữu tình,tính Duyên khởi là Phật tính (Buddhata), đối với tất cảloài vô tình, tính Duyên khởi là Pháp tính (Dharmata).

Phật tính hay Pháp tính đối vớitình (sattva) hay phi tình (asattva) đều là tính thường trú,tính quyết định và tính y tha.

a. Tính thường trú:Nguyênlý Duyên khởi là nguyên lý có tính thường trú - Nghĩa làtất cả pháp trong quá khứ cũng do duyên mà khởi, hiện tạicũng do duyên mà khởi, nơi này cũng do duyên mà khởi, nơikia cũng do duyên mà khởi. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúcnào, pháp vốn là như thế, pháp vốn là duyên khởi, nên tínhduyên khởi là tính thường trú của tất cả pháp.

Lại nữa, tính ấy, nếu đứngở mặt thuần giác ngộ mà nói, thì chư Phật trong quá khứ,như đức Phật Tỳ-bà-thi (Nipasì), Phật Thi-khí (Sikhì), PhậtTỳ-xá-phù (Vessàbhù), Phật Câu-lưu-tôn (Kakusandha), PhậtCâu-na-hàm (Konàgamana), Phật Ca-diếp (Kassapa), tất cả chưPhật đều do quan sát chiêm nghiệm về lý Duyên khởi mà thànhtựu Vô thượng Bồ-đề (Anuttara Samyaksambodhi).

Ngay trong hiện tại, đức PhậtThích-ca Mâu-ni (Sakyamuni) cũng do quán sát, chiêm nghiệm lýDuyên khởi mà thành Phật. Và vị lai chư Phật cũng sẽ nhưthế, thì không thể không quán sát nguyên lý Duyên khởi. Vìthế nguyên lý Duyên khởi ở quá khứ nó đã xảy ra và hiệnhữu như thế. Vị lai nó sẽ xảy ra và nó sẽ hiện hữunhư thế ở nơi này, hoặc nơi kia; nó đã, đang và sẽ xảyra; và nó cũng đã, đang và sẽ hiện hữu như thế.

Vì do bất cứ ở đâu và bất cứlúc nào, chính Duyên khởi cũng xảy ra như vậy cả, nên gọichúng là pháp có tính thường trú, siêu việt và bất tư nghị.

b. Tính chất quyết định:Pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi, là nguyên lý cótính cách quyết định sự hiện hữu và không hiện hữu củatất cả pháp hay của tất cả sự vật. Nếu đủ duyên thìcác pháp sinh khởi; không đủ duyên thì các pháp tán loạn.

Nói cách khác, nếu không có duyên,thì không có một pháp nào tự thân nó duyên khởi được.

Bởi vậy, Kinh nói: "Tất cả pháptự nhân duyên sinh khởi, nếu không có nhân duyên thì khôngcó sự sinh khởi của tất cả pháp". (Quán Thế AÂm Bồ-tátthọ ký kinh. Tr. 353c, ÐTK 12).

Do đó, nguyên lý Duyên khởi cótính cách quyết định sự tồn tại hay không tồn tại củatất cả pháp hay của tất cả sự vật.

c. Tính y tha:Pháp Duyên làpháp có tính nương tựa lẫn nhau để sinh khởi. Do tính này,nên các pháp không bao giờ có sự tồn tại độc lập nếucó chăng là có ở cách nói, chứ không bao giờ thực sự cóở bản chất.

Vì tự bản chất của chúng làhỗ tương, là nương tựa, là tác động qua lại lẫn nhauđể sinh thành và hủy diệt. Nên một sự hủy có thể kéotheo muôn ngàn sự hủy; một sự sinh có thể kéo theo muônngàn sự sinh. Và nếu chúng ta biết lắng nghe, thì chỉ cầnmột cánh bướm vỗ nhẹ, cũng nghe chao động cả ba ngàn đạithiên thế giới. Và nếu chúng ta biết ngắm nhìn, thì chỉcần nhìn thẳng vào một hạt cát, cũng đủ để thấy rõbản chất của thế giới mười phương.

Nói tắt, tính của các pháp làtính luôn luôn nương tựa, luôn luôn tác động lẫn nhau đểsinh khởi. Vì vậy, tính y tha là tính của pháp.

Ba tính vừa nêu, có thể nói đólà ba tính hệ trọng của pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyênkhởi.

Pháp Duyên khởi có thể nói làgiáo pháp chủ yếu của Phật giáo, vì pháp ấy bao hàm đủcả các pháp ấn vô thường(anitiya), khổ(dukkha),không(sùnya), vô ngã(àntama).

Các pháp ấy, không có trường pháinào trong Phật giáo, không xem chúng là giáo lý có tính cáchngăn để.

Ðành rằng, các pháp ấy, đượccác trường phái Phật giáo xem chúng là giáo lý có tính cáchngăn để, nhưng tại sao Duyên khởi lại là giáo lý nội hàmcác pháp ấn ấy? Giáo lý Duyên khởi nội hàm các pháp ấy,vì tất cả pháp là duyên khởi, cái gì do duyên khởi, thìcái ấy là vô thường, cái gì vô thường, thì cái ấy phảicó thành, trụ, hoại, không. Nếu chấp chặt và cảm thọvào những thành, trụ, hoại, không ấy, thì nhất định phảikhổ đau.

Tất cả pháp là duyên khởi nênkhông có tự tính, vì không có tự tính cho nên vô ngã, dovô ngã nên không có thần ngã nào gọi là bất biến và vĩnhcữu. Do không có một thần ngã nào gọi là bất biến vàvĩnh cửu, nên con người có thể tu tập, có thể cải tạo,có thể chuyển đổi từ ngu dốt đến trí tuệ, từ khổđau đến hạnh phúc, từ ác sang thiện, từ ích kỷ đếnvị tha, từ phàm tục đến thánh giả.

Dựa vào chừng ấy lý do, cũng đủđể cho chúng ta có thể kết luận rằng: nguyên lý Duyênkhởi là giáo pháp chủ yếu của đạo Phật. Chúngta thường trực quán chiếu và thường trực thấu triệt nguyênlý ấy, thì nhất định chúng ta sẽ là Phật như chư Phậtđã làm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/07/2010(Xem: 6870)
Đất nước ta có một lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, Phật giáo Viẹt Nam có bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm hoằng pháp độ sanh. Kể từ ngày du nhập đến nay, với tinh thần khế lý, khế cơ, khế thời, Đạo Phật đã thực sự hoà nhập cùng với đà phát triển của đất nước và dân tộc. Trải qua bao cuộc biến thiên, Phật Giáo Việt Nam cũng thăng trầm theo những thời kỳ thịnh suy của dân tộc, nhưng không vì thế mà việc hướng dẫn các giới Phật tử tại gia bị lãng quên.
17/07/2010(Xem: 8459)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.
01/07/2010(Xem: 14896)
Ở làng quê Việt Nam ngày xưa, khi làm mùa vụ, người nông dân có thể nhờ vài người trong thôn xóm đến phụ giúp mà không phải trả tiền. Chỉ cần đến phiên bên kia làm mùa vụ, hay sửa sang nhà cửa, hoặc bất cứ công việc nặng nhọc nào đó, thì bên này sẽ qua phụ giúp lại. Cái đó gọi là vần công. Cách thức này thật hay.
25/06/2010(Xem: 7463)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
17/06/2010(Xem: 7319)
Gần90 phần trăm dân tộc Miến đều theo Phật Giáo. Giữa khung cảnh xanh tươicủa đất Miến, người ta thấy vươn lên từ các đỉnh đồi dọc theo bờ sông hay trên thung lũng những ngôi chùa màu trắng. Ðời sống xã hội Miến hoàntoàn xây dựng trên nền tảng Phật Giáo. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã thấm nhuần sâu xa khắp mọi tâm hồn dân Miến. Trong xã hội tăng già hay Phongyis chiếm một địa vị cao quý, quan trọng. Ảnh hưởng của họ chi phốikhắp các từng lớp dân chúng. Họ tham dự vào hết thảy mọi công tác từ thiện. Mỗi thôn xóm đều có một ngôi chùa gọi là Phong yikyaung để giúp đỡ, phát triển Phật sự trong vùng.
02/06/2010(Xem: 6488)
Một người bề ngoài trông có vẽ khỏe mạnh với vóc dáng hấp dẫn , diện mạo phương phi nhưng nếu trong lòng có điều phiền muộn , bất ổn về tâm lý thì không thể xem là có sức khỏe toàn diện . Và yếu tố tâm lý luôn luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì , bảo vệ sức khỏe .
01/06/2010(Xem: 5584)
Phóng sinh bắt nguồn từ kinh Phật Đại Thừa, thịnh hành ở Trung Hoa, Tây Tạng, truyền sang Nhật Bản và các nước láng giềng Triều Tiên, Việt Nam. Hoạt động phóng sinh dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng giữa chúng sinh, và quan niệm nhân quả của sinh tử luân hồi. Nếu vừa giữ giới sát, lại vừa phóng sinh thì công đức gấp bội.Những tỷ dụ kinh nghiệm cảm ứng về phóng sinh, sách sử nói đến rất nhiều.
27/05/2010(Xem: 8774)
Có người nói ngủ chiếm một phần ba cuộc đời, uổng phí quá! Đừng ngủ thì lợi hơn! Nhưng lợi đâu không thấy chỉ thấy mất ngủ vài ba đêm thì đầu óc không sảng khỏai để làm việc, năng suất thấp, mất ngủ lâu dài hơn thì dẫn tới bệnh tâm thần và cuối cùng thì thay vì cuôc sống dài ra lại bị rút ngắn đi một cách đáng tiếc!
15/05/2010(Xem: 6388)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương - Thích Thanh Cát, Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ : “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Đại-định để hàng phục mọi ma chướng.” Suy nghĩ xong, Đức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Đức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.
09/05/2010(Xem: 10608)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567