Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chọn một cách sống an lạc…

03/07/201304:42(Xem: 10618)
Chọn một cách sống an lạc…

Chọn một cách sống an lạc…

Lưu Đình Long

Đó là lời khuyên để người trẻ suy nghĩ và tìm cho mình một cách để sống là sống vui, sống khỏe chứ không phải là lây lất, sống chỉ dưới dạng thức sinh học còn tâm hồn thì đau đớn, hay “chết ngắt” vì sống mà không có ích, thậm chí làm hại mình, hại người…

1384316_494145850683898_639247172_n.jpg

Chọn sống an lạc - Ảnh minh họa

1.Nhiều bạn trẻ vô tư quá! Vô tư ở đây được hiểu là không quan tâm tới cuộc sống, mặc kệ mọi thứ, nhưng trong cuộc sống luôn cần những nghĩ suy để có thể hiểu mà sống cho tốt, để tránh những vấp váp trong cuộc đời. Xã hội ngày một phát triển, đời sống vật chất tăng lên nên những người trẻ được cung ứng đầy đủ dinh dưỡng để lớn lên nhưng lại quá ít chất liệu để trưởng dưỡng nội tâm. Thế nên, rất nhiều tâm hồn trẻ em trong những cơ thể đã lớn sầm, với hình tướng không còn con nít cùng những hoạt động sinh lý đủ để thành một “người lớn”.

Chính vì thiếu nền tảng tâm hồn, chưa nghĩ được thật sâu sắc những điều lẽ nên phải biết nhằm cân bằng cuộc sống nên không thiếu người trẻ lớn rồi mà sống vô tư, vô lo theo nghĩa… vô trách nhiệm. Không thiếu những chia sẻ gần như bất lực của những ông bố, bà mẹ trên các diễn đàn, rằng “con mình không biết làm gì cả, 18-20 tuổi rồi mà cái gì cũng bố, mẹ, thiếu một kỹ năng ứng xử để gọi là trưởng thành, nên mình lo lắm”.

Cũng chính vì sự vô tư này cũng như đánh giá sai về những hoạt động tay chân, những công việc thủ công, đồng thời quá lệ thuộc vào những phương tiện khoa học, tiện ích kỹ thuật nên người trẻ cũng “thiệt thòi” trong ý nghĩa không xử lý được những tình huống đòi hỏi động tay chân, xắn ống quần lên để làm.

Hai từ “dấn thân” đôi khi trở nên xa xôi với nhiều người trẻ vì đã quen với những sự chăm sóc tận răng. Nhiều người lo lắng bởi vì thế hệ trẻ sinh ra trong một gia đình con một nên được cưng chiều dẫn tới thiếu những kỹ năng ứng phó với khó khăn, do đó dễ nổi cáu, bực bội cũng như dễ bỏ cuộc khi đối mặt với khó khăn.

Cách giáo dục trong một xã hội mà việc học đặt lên hàng đầu, xem như cơ hội đổi đời là tốt, nhưng nếu đi quá xa trong nếp nghĩ kỳ thị cả những ngành nghề liên quan đến tay chân, sức vóc thì sẽ khiến cho người trẻ chông chênh hơn là trưởng thành. Sự chông chênh của việc không thể chịu đựng được thất bại trong một cuộc cạnh tranh với cánh cửa hẹp vào giảng đường cùng áp lực “con phải đậu” trong kỳ vọng của bố mẹ đã đẩy các bạn trẻ vào chỗ mệt mỏi nhiều hơn là thoải mái. Nạn tự tử cũng từ đây mà ra!

Bên cạnh đó, lại có nhiều bạn trẻ học chỉ để “hợp thức hóa” cái bằng, còn chỗ làm thì đã được lo lót đầy đủ, dọn sẵn một con đường để về nên sự “vô lo” càng khiến cho họ trở nên ngạo mạn. Con đường tiến thân vốn cần phải được đi bằng đôi chân mình thì lại được “ô dù” che chở, đường vòng, đường tắt, không cần đổ mồ hôi, dẫn tới đạt được mục đích nhưng lại thiếu trân trọng và dễ dàng bán mình cho “quỷ dữ” vì ngay từ bước đầu đã “nương nhờ” quỷ dữ - là chức quyền hay tiền bạc sẵn có thì trách sao phạm pháp, hư hao tâm hồn không là mẫu số chung cho những quý tử, cô chiêu, cậu ấm con nhà giàu?

2.Nhiều bạn trẻ vô tâm ghê lắm!Ờ, thì người lớn đã dạy cho họ sự vô tâm bằng cách thờ ơ trong chăm sóc, nuôi nấng, truyền trao hơi ấm. Thậm chí, còn trao tình thương sai cách, bằng việc nghĩ rằng cứ lo tận răng mọi thứ, tiền bạc chu cấp không thiếu với mọi người, đòi chi được nấy, thế là được, tốt lắm rồi. Trong khi đó, đứa trẻ lớn lên cần bàn tay người mẹ, sự ân cần bảo ban từ cha, thì nay, việc ru con lắm khi cũng nhờ tới đầu đĩa, tivi, máy tính… thì lấy đâu ra hơi ấm để những người trẻ lớn lên, cảm được sự gần gụi giữa con người với con người, trước tiên là cha mẹ.

Thêm vào đó, chỉ mới lên 3, lên 5 tuổi thôi đã được cưng chìu, trao cho chiếc điện thoại Iphone, hay Ipad để “vùi đầu” vào thế giới ảo với những trò chơi đấm đánh túi bụi cùng việc lướt web suốt ngày. “Mùi” người không được “ngửi” và cũng không được “chạm” bằng mắt, bằng tai sống động nên khi tiếp xúc với con người thật, nhất là những người khổ thì người trẻ sẽ khó cảm được, nếu không muốn nói chai ì cảm xúc.

Hơn nữa, trong thế giới hỗn mang, thiếu thốn niềm tin do có quá nhiều giả dối xung quanh nên người ta cứ thế đề phòng nhau, canh me từng chút một thì lấy đâu ra những xúc cảm chân thành để mà nuôi lớn lòng từ bi? Qua một ngả tư, đứa trẻ ở trường được dạy bài học chia sẻ, định móc tiền lẻ bỏ vào chiếc nón ngửa ra của người ăn xin thì người mẹ giật lại, “họ giả bệnh, giả nghèo để lừa mình đó con”. Đứa trẻ ngát ngơ, nhìn người ăn xin, nhìn mẹ, nhớ bài học ở trường rồi buồn thiu, thất vọng. Giá mà người mẹ khuyến khích con việc làm đúng bài đã học, vì chưa biết họ lừa hay không, nhưng ngay khi sẻ chia thì trong tâm hồn ngây thơ của trẻ, hạt giống từ bi đã trổ lên, nhú mầm yêu thương rồi.

Đôi khi, cũng cần bỏ ra một ít để làm mềm tâm hồn mình, để không vô cảm. Chính vì không ai nghĩ như thế nên dần dần, mọi hình ảnh khổ đau hiện ra trước mắt cũng trở nên bình thường trong dòng nghĩ mênh mang, trong ám ảnh “họ lừa mình”.

3. Giá mà, người trẻ nào cũng được học Phật. Ước thế thôi, chứ nếu điều ước đó thành sự thật thì cũng đồng nghĩa với việc thế giới này hòa bình, cõi Ta-bà hóa thành Tịnh độ rồi. Vì nếu được học Phật, thấm lời Đức Thế Tôn dạy thì người trẻ sẽ biết nhân-quả mà không vô tư, dẹp vô tâm qua một bên để sống là biết sẻ chia, biết nghĩ đến những hạt giống liên tục được gieo cấy trong vườn tâm của mình thông qua cách mình nghĩ, điều mình nói và việc mình làm.

Đó chính là ba nghiệp (ý-khẩu-thân). Không có chi là vô nghĩa trên cuộc đời này cả. Thiền sư thấy “không khổ đau lấy chi làm chất liệu” để nhắc môn đệ mình rằng, nghịch duyên cũng giống như “lửa” để “thử vàng”, để rèn mình. Những khó khổ, dấn thân vào chỗ thiếu thốn, để chịu thiếu thốn một chút biết đâu sẽ dạy mình trân quý giá trị lao động-sáng tạo, để mình không chài ì cảm xúc trước cảnh mưu sinh khó khăn của đồng loại, hay hình ảnh nghèo đói, khát nước, thiếu ăn của bạn bè đồng trang lứa của mình ở nơi khác, vùng khác, nước khác, châu lục khác. Đồng thời, cũng là hiểu rằng, việc không làm mà hưởng thì cũng giống như người có đống tiền, ăn hoài cũng hết; phước hữu lậu có đó, mất đó. Chính vì thế mà phương Tây, các tỉ phú không bao giờ để con mình thừa kế tài sản kếch sù, tất cả đều để cho từ thiện. Con cái lớn lên, hãy đứng vững trên đôi chân mình, sống bằng đôi tay, khối óc của mình chứ đừng ỷ lại hay dựa dẫm vào người khác, kể cả đó là người thân.

Thêm nữa, hiểu Phật pháp, học Phật thì người trẻ sẽ học được rằng, ai giả kệ họ, mình cứ thật tâm mà sống, cứ thương, không phân biệt thì tình thương sẽ trở nên nhẹ hều, không phải cân đo, đong đếm. Tình thương mà bị chen ngang bởi hoài nghi thì sẽ trở nên ấu trĩ, sẽ thành ích kỷ, sẽ biến người ta thành người tính toán thiệt hơn. Khi đó không phải là thương nữa, mà là đau mình và dễ hại người. Giới trẻ bây giờ vì bản thân nhiều quá, nên hễ ai động tới mình dễ sinh ra đối kháng, loại trừ. Không chịu được đau nên phản ứng mạnh lại, song, lại quên mất nhân quả-nghiệp báo, mình gây phương hại cho người thì mình sẽ khổ đau, sẽ chịu trách nhiệm (lãnh quả) không lành.

Do vậy, chọn một con đường bình an, chính là chọn sống theo lời Phật dạy, sống thật kỹ càng, từ ý-ngữ-thân, luôn nghĩ thiện, làm lành, nói điều tốt đẹp. Nguyện thế thì đường ác sẽ xa ra!

Nguon:giacngo.vn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7434)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6619)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6203)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6119)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7672)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4727)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9729)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5861)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5435)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6163)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]