Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài ghi chú về Pho tượng Phật Giáo tạc từ một khối thiên thạch

11/10/201202:27(Xem: 6289)
Vài ghi chú về Pho tượng Phật Giáo tạc từ một khối thiên thạch

VÀI GHI CHÚ VỀ

Pho tượng Phật Giáo tạc từ một khối thiên thạch
Hoang Phong

photuongpg-hoangphong

The-Buddhist-statue-hoangphongGần đây một mẩu tin về một pho tượng Phậtdo người Đức đánh cắp của Tây Tạng từ năm 1938 vừa được các khoa học gia phát hiện đã được báo chí khắp thế giới đăng tải. Pho tượng được người Tây Tạng tạc vào thế kỷ XI từ một khối thiên thạch vô cùng hiếm hoi đã rơi xuống địa cầu cách nay khoảng 10.000 năm đến 20.000 năm.

Mẩu tin nhỏ này được đưa lên một số trang web nhằm mục đích giúp những người quan tâm về những thông tin Phật Giáo trên thế giới, thế nhưng thật hết sức bất ngờ là lại có nhiều người đặc biệt chú ý đến sự kiện khá "kỳ thú" này.

Hầu hết đều thắc mắc về các chữ VaisravanaSambhalatức là tên gọi của pho tượng, tại sao hai chân của pho tượng lại buông thõng mà không bắt tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền như thường thấy, và đồng thời ý nghĩa của chữ Vạn là gì v.v..., Do đó người viết xin mạn phép nêu thêm vài ghi chú nhỏ với hy vọng có thể giải thích những thắc mắc này. Trước hết là một vài chi tiết về chữ Vạn.

Dấu hiệu chữ Vạn

Chữ Vạn tiếng Phạn là Swastika, là một ký hiệu mang tính cách thần bí và tôn giáo, được tìm thấy từ 2.500 năm đến 3.000 năm trước Tây Lịch ở khắp nơi trên địa cầu, từ Đông sang Tây, từ Bắc Phi (Ai Cập) đến nam Thái Bình Dương (Úc Châu) và cả Mỹ Châu. Tóm lại đây là một trong số các dấu hiệu "tôn giáo" phổ biến và lâu đời nhất của nhân loại. Ở Á Châu thì ký hiệu này đã từng được nhiều tôn giáo sử dụng, chẳng hạn như đạo Ja-in, Ấn Giáo và Phật Giáo. Ngày nay dấu hiệu này vẫn còn thấy nhan nhản khắp nơi, nhất là ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, v.v... Các "tôn giáo mới" chẳng hạn như đạo Cao Đài, Phá Luân Công... cũng sử dụng ký hiệu này.

Theo Ấn Giáo thì chữ Vạn có hai ý nghĩa khác nhau tùy vào hướng quay của chữ này: quay sang phải thì mang ý nghĩa một sự thăng tiến (Pravitti), quay sang bên trái thì sẽ biểu trưng cho một sự hủy diệt (Nivriti). Thế nhưng việc xác định hướng quay cũng rất dễ bị lầm lẫn, thí dụ cùng một chữ Vạn thế nhưng nếu căn cứ vào góc nhọn hay vào đầu của mỗi nhánh của chữ Vạn để định hướng thì tất sẽ có hai hướng quay trái ngược nhau (xem H. 1 và 2).

Tóm lại chữ Vạn xuất hiện khắp nơi và thuộc vào nhiều nền văn hóa và sắc tộc khác nhau, do đó ý nghĩa, cách hiểu và mục đích sử dụng của chữ này cũng rất phức tạp và đa dạng. Theo truyền thống thì chữ Vạn của Phật Giáo, nếu căn cứ vào đầu mỗi nhánh để định hướng thì sẽ quay theo hướng trái (xem hình trên ngực của pho tượng). Thiết nghĩ chỉ cần ghi nhớ quy ước này cũng đủ, ít ra là có thể nhờ đó để phân biệt chữ Vạn của Phật Giáo với chữ Vạn của Đức Quốc Xã, vì chữ Vạn của Đức Quốc Xã quay theo hướng phải.

vaighichu-021 vaighichu-012 vaighichu-03

H.1 và 2: Cùng một chữ Vạn thế nhưng có hai cách giải thích khác nhau về chiều quay tùy theo cách định hướng căn cứ vào đầu hay vào góc nhọn của mỗi nhánh. Cách giải thích theo hình số 2 là cách thường thấy nhất và hướng quay là chiều bên phải, chữ vạn trên ngực pho tượng có hướng quay bên trái.

H.3: Một số các kiểu chữ Vạn thuộc các truyền thống văn hóa, tín ngưỡng và địa phương khác nhau.

Các vị thần linh Vaisravana và Sambhala có đúng là các nhân vật biểu trưng bởi pho tượng hay không

Trước nhất có lẽ cũng nên xác định xem pho tượng có đúng là một pho tượng Phật Giáo hay không. Có ba chi tiết chính mà trước nhất là về vầng hào quang trên đầu pho tượng. Phổ Diệu Kinh cho biết là sau khi đạt được Giác Ngộ thì trên đầu của thái tử Tất-đạt-đa hiện ra một vầng hào quang rạng rỡ. Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya, 26) kể rằng sau khi thành Phật thì Đức Phật đi đến thành Ka-thi (Kashi, ngày nay là Vanarasi hay Ba-la-nại) để tìm lại năm vị đồng tu trước đây. Trên đường có một vị sa-môn trẻ tuổi theo đạo Ja-in đi ngược chiều với Đức Phật và bỗng để ý thấy trên đầu Ngài toả ra một vầng hào quang thật sáng, bèn lấy làm lạ và hỏi Ngài là môn đệ của ai và tu tập theo Giáo Lý nào... Tóm lại vầng hào quang là một biểu hiệu đặc thù của Phật Giáo và cũng đã được tạc nơi đầu của các pho tượng Phật đầu tiên phát hiện vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Sau này các tượng ảnh biểu trưng cho các nhân vật của một vài tôn giáo khác cũng thấy có các vầng hào quang như thế và đấy cũng chỉ là một sự vay mượn của Phật Giáo. Chi tiết thứ hai là chữ Vạn khắc trên ngực của pho tượng cũng cho biết đấy là một pho tượng Phật Giáo. Chi tiết thứ ba là pho tượng đội một cái mũ tiêu biểu cho các vị đại sư và thánh nhân Tây tạng, chi tiết này tất nhiên cho thấy đây là một pho tượng Tây Tạng. Thế nhưng pho tượng biểu trưng cho nhân vật nào trong Phật Giáo? Có đúng đấy là vị Vaisravanahay Jambhalanhư trong bản tin do báo chí nêu lên hay không?

Vaisravanalà tiếng Phạn, được dịch sang tiếng Hán là Đa Văn Thiên Vương, còn gọi là Bắc Phương Thiên Vương, tức là vị Hộ Pháp thứ nhất trong số Tứ Đại Thiên Vương, giữ vai trò trấn giữ phương Bắc.

vaighichu-041 vaighichu-052 vaighichu-063 vaighichu-074

H.1- Vaisravana Tây Tạng (Namthöse): ngồi trên lưng của một con sư tử tuyết (thế kỷ XV, bảo tàng viện Guimet, Paris)

H.2 - Vaisravana Trung Quốc (Đa Văn Thiên Vương / Duo Wen Tian Wang): tay phải cầm thương, tay trái cầm một bảo tháp. Các pho tượng thuộc vào loại này rất thường thấy ở các ngôi chùa Trung Quốc.

H.3 - Vaisrarana Nhật Bản (Damon-ten): (chùa Todai-ji, thế kỷ thứ VIII)

H.4 - Vaisravana Hàn Quốc (Damun Cheonwang): (chùa Pyochungsa, gần thị trấn Miryang)

Vị Vaisravana còn được gọi là Jambhalahay Kubera(hai chữ này đều là tiếng Phạn), tiếng Tây tạng là Namthöse, tiếng Nhật là Damon-ten, tiếng Hàn Quốc là Damun Choenwang, tiếng Thái là, Thao Kuwen). Khái niệm về Tứ Đại Thiên Vương khá phổ biến tại các quốc gia trên đây. Người Trung Quốc tạc tượng vị Vaisravanadưới hình tướng của một thần linh thật oai phong, mặc áo giáo, tay phải cầm một cây thương hay đinh ba, tay trái cầm một bảo tháp nhỏ tượng trưng cho trọng trách bảo vệ Đạo Pháp của mình. Tại các nước khác vị này được biểu trưng với một vài nét thay đổi nhỏ, thế nhưng tuyệt nhiên không có một vị nào giống với pho tượng tạc bằng thiên thạch vừa được khám phá ở Đức, nói một cách khác là pho tượng này không hội đủ các tiêu chuẩn cần thiết để xác định đấy là vị Vaisravana.

Như vậy thì pho tượng mà người Đức đã đánh cắp của Tây Tạng vào năm 1938 biểu trưng cho nhân vật nào trong Phật Giáo? Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng. Tiếng Phạn gọi tư thế này là bhadrasana, một tư thế sẵn sàng để đứng lên. Đấy là cách biểu trưng rất độc đáo cho Phật Di Lặc. Đôi khi các pho tượng Di Lặc cũng được trình bày ngồi trên ghế hay trên bục với hai chân buông thẳng, và các học giả Tây Phương thì thường gọi đấy là "cách ngồi của người Tây Phương" trên một chiếc ghế. Thật vậy, Phật Di Lặc là vị Phật tương lai luôn được tạc trong tư thế ngồi chờ với hai chân sẵn sàng đứng lên để cứu độ chúng sinh. Có rất ít các pho tượng Di Lặc được tạc trong tư thế đứng thẳng, chỉ có một vài pho tượng được tìm thấy trong vùng Gandhara (thế kỷ thứ II và III) thuộc Pakistan ngày nay, hoặc một số nhỏ các pho tượng Di Lặc Thái Lan là được tạc trong tư thế đứng thẳng. Cách tạc tượng biểu trưng cho một sự "chờ đợi" và đồng thời cũng "sẵn sàng" đứng lên này cũng là một sự sáng tạo độc đáo của nghệ thuật tạo hình Phật Giáo.

vaighichu-081

vaighichu-092 vaighichu-103

vaighichu-114 vaighichu-136 vaighichu-127

Vài hình ảnh Phật Di Lặc

(Các hình tượng Phật Di Lặc đều được tạc ngồi trên ghế hay trên bục với đôi chân buông thõng, hoặc một chân co một chân duỗi trong tư thế sẵn sàng đứng lên. Xin lưu ý là Phật Di Lặc Trung Quốc trong các thời cận đại đã bị biến dạng và trở thành khá giống với một ông Thần Tài, xin xem hình 6 và 7. H.1- Phật Di Lặc Sarnath - Ấn Độ, thế kỷ thứ V; H.3- Phật Di Lặc Hàn Quốc; H.6- Phật Di Lặc Trung Quốc, hang Vân Cương, thế kỷ thứ V-VI; H.7- Phật Di Lặc tạc trong vách núi ở Feilai Feng, Hàng Châu)

Tóm lại có thể kết luận rằng pho tượng bằng thiên thạch của Tây Tạng tạc vào thế kỷ XI là một pho tượng Di Lặc. Một số các chi tiết khác cũng củng cố thêm cho sự xác định này, chẳng hạn như vầng hào quang trên đầu và chữ Vạn trên ngực chỉ được sử dụng để biểu trưng cho các vị Phật và các vị Bồ-tát đắc đạo và không bao giờ được dùng để chỉ định các vị thần linh. Bàn tay phải của pho tượng được tạc để ngữa, đấy là cách biểu trưng cho sự bố thí và lòng từ bi, bàn tay trái thì cầm một cái bình đựng nước "cam lồ" dùng để cứu độ chúng sinh. Hai trọng trách này không thuộc vào bổn phận của các vị thần linh như Tứ Đại Thiên Vương chẳng hạn.

Một vài cảm nghĩ thay cho lời kết

Theo truyền thuyết thì Đức Di Lặc chỉ là một vị Bồ-tát sắp thành Phật đang ngụ ở cung trời Đâu Suất (Tusita) chờ đúng lúc để nhập thế hầu cứu độ chúng sinh. Thế nhưng đến khi nào thì Phật Di Lặc sẽ hiện xuống thế gian này? Kinh sách không thống nhất về thời điểm ấy. Một số người cho rằng Phật Di Lặc sẽ hiện xuống địa cầu khoảng 30.000 năm sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tịch diệt, một số khác thì lại nghĩ rằng phải chờ đến 3 tỉ 920 triệu năm. Con số này có thể là hơi phóng đại, bởi vì tuổi của địa cầu theo các nhà khoa học cho biết là 4,55 tỉ năm và con người ngày nay chỉ mới được hình thành khoảng hai triệu năm trở lại đây mà thôi. Vậy nhân loại có hội đủ "kiên nhẫn" để chờ đợi thêm … gần 4 tỉ năm nữa để có thể trông thấy Đức Phật Di Lặc hay không?

Tất cả đều vô thường, mọi hiện tượng luôn chuyển động, trong một tương lai gần hay xa nhân loại rồi cũng sẽ không còn nữa, địa cầu này cũng sẽ bị tàn phá, tài nguyên sẽ kiệt quệ hay biết đâu cũng có thể sẽ nổ tung trước thời hạn quá dài trên đây? Cách suy nghĩ như thế thiết nghĩ cũng không đến đỗi nào quá yếm thế mà chỉ là một cảm nghĩ đối với hiện thực của một người hiểu được lời Phật dạy là gì.

Các nhà khoa học cho rằng một khối thiên thạch vô cùng hiếm hoi đã rơi xuống địa cầu cách nay khoảng 10.000 đến 20.000 năm. Trên phương diện địa chất học thì quả thật hết sức khó để định tuổi chính xác một khối thiên thạch đã rơi xuống địa cầu vào lúc nào. Thế nhưng người ta có thể biết đích xác là khối thiên thạch ấy đã được tạc thành một pho tượng của Phật Di Lặc vào thế kỷ XI.

Đức Đạt-lai Lạt-ma rời Tây tạng vào năm 1959 và đã nêu cao Đạo Pháp trên toàn thế giới. Pho tượng Di Lặc được tạc bằng thiên thạch, chân cao chân thấp đã từng ngồi chờ từ 1.000 năm nay ở một nơi nào đó trên đất Tây Tạng và đã không còn ngồi chờ thêm nữa mà lại vừa mới xuất hiện giữa xã hội loài người trong thế giới Tây Phương. Có phải đây là một biến cố mới đánh dấu một giai đoạn mới cho xứ Tây Tạng và mang lại một niềm hy vọng nào đó cho những người Phật Giáo nói chung hay không?

Hoang Phong

Bures-Sur-Yvette, 08.10.12

Xem bài viết liên quan:

MỘT PHO TƯỢNG PHẬT GIÁO BẰNG THIÊN THẠCH đã được khám phá từ năm 1938 - Hoang Phong biên soạn

(SÁCH CÙNG TÁC GIẢ/ DỊCH GIẢ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/11/2010(Xem: 8736)
Hôm nay chúng tôi được duyên lành về đây, trước hết thăm chư Tăng trong mùa an cư, sau có vài lời muốn nói cùng chư Tăng Ni. Chúng tôi thường tự tuyên bố rằng tôi là kẻ nợ của Tăng Ni, nên trọn đời lúc nào tôi cũng canh cánh trong lòng nghĩ đến người tu xuất gia, muốn làm sao tạo duyên tốt cho tất cả Tăng Ni trên đường tu, mỗi ngày một tiến lên và tiến đúng đường lối của Phật đã dạy.
20/11/2010(Xem: 8468)
Khái niệm về "Tám mối lo toan thế tục" tiếng Phạnlà "Astalokadharma",tương đối ít thấy đề cập trong Phậtgiáo Trung hoa, Việt Nam, Triều tiên và Nhật bản, nhưng thường được triển khai trongPhật giáo Ấn độ và Tây tạng. Vậy "Támmối lo toan thế tục" là gì ? Đó là những tình huống, những mối bận tâmvà lo lắng làm xao lãng tâm thức và sự sinh hoạt của người tu tập. Những mối bậntâm đó được phân chia thành bốn cặp :
19/11/2010(Xem: 8306)
Nếu bạn hỏi ta tham dự vào việc lắng nghe, suy niệm và thiền định về giáo lý như thế nào thì câu trả lời là ta cần làm những điều đó không chỉ vì lợi ích của ta, nhưng bởi lợi lạc của tất cả chúng sinh. Như vậy bạn phát triển Bồ Đề tâm ra sao? Trước hết bạn thiền định về lòng từ ái, và sau đó là lòng bi mẫn. Làm thế nào bạn biết là mình có Bồ Đề tâm hay không? Người không phân biệt giữa bạn và thù, người ấy có Bồ Đề tâm. Điều này rất khó khăn đối với người mới bắt đầu, bạn nghĩ thế phải không? Vậy tại sao khó khăn? Từ vô thủy chúng ta đã bám chấp vào ý niệm sai lầm của cái tôi và đã lang thang suốt trong sinh tử.
19/11/2010(Xem: 9774)
Giáo lý này được đưa ra để làm lời nói đầu cho tập sách mỏng về Phật Ngọc và Đại Bảo Tháp Từ bi Thế giới được xây dựng tại Bendigo, Úc châu, theo lời khẩn cầu của ông Ian Green.
18/11/2010(Xem: 11195)
Tôi vừa từ Kuala Lumpur trở về Singapore tối nay. Tôi đã tới đó để dự một lễ Mani Puja trong 5 ngày do Trung tâm Phật giáo Ratnashri Malaysia tổ chức. Đây là trung tâm thuộc Dòng Truyền thừa Drikung Kagyu và có nối kết mật thiết với Đạo sư Drubwang Konchok Norbu Rinpoche. (1) Trong khóa nhập thất này, tôi đã cố gắng để được gặp riêng Đại sư Garchen Rinpoche. Rinpoche đã xác nhận rằng Khóa Nhập thất hàng năm Trì tụng 100 Triệu Thần chú Mani được tiếp tục để làm lợi lạc tất cả những bà mẹ chúng sinh chính là ước nguyện vĩ đại nhất của Đạo sư Drubwang Rinpoche. Rinpoche khuyên rằng chúng ta có thể thành tâm thỉnh cầu Tu viện KMSPKS (Tu viện Kong Meng San Phor Kark See tại Singapore) tiếp tục khóa nhập thất bởi điều này cũng làm lợi lạc cho Tu viện. Rinpoche cũng đề cập rằng các Đạo sư Tâm linh Drikung Kagyu sẽ luôn luôn hết sức quan tâm tới Khóa Nhập Thất Mani bởi nó rất lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
18/11/2010(Xem: 12470)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
17/11/2010(Xem: 11323)
Còn định nghiệp là sao? Ðịnh nghiệp mới xem bề ngoài cũng có phần tương tự như định mệnh. Ðã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không quả, hay có quả mà không nhân. Ðó là một quy luật đương nhiên. Tuy nhiên luật nhân quả nơi con người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự con người chủ động. Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy quả, ấy là thọ nghiệp quả. Do vậy dù ở trường hợp thụ quả báo có lúc khắt khe khó cưỡng lại được, nhưng tự bản chất đã do tự con người thì nó không phải là cái gì cứng rắn bất di dịch; trái lại nó vẫn là pháp vô thường chuyển biến và chuyển biến theo ý chí mạnh hay yếu, tốt hay xấu của con người.
16/11/2010(Xem: 8260)
Chúng tôi vui mừng biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và triết lý đạo Phật.... Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
16/11/2010(Xem: 7386)
Sống là làm cho mình càng ngày càng hoàn thiện hơn, theo đúng với sự tiến hóa của con người và thế giới. Tự hoàn thiện là tránh làm những cái xấu và trau dồi thêm những cái tốt. Trau dồi, bồi dưỡng, trồng trọt cũng là nghĩa chữ văn hóa (culture) trong tiếng phương Tây. Bất kỳ con người nào cũng muốn cuộc sống mình tiến bộ theo chiều hướng đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Không ai muốn điều ngược lại.
15/11/2010(Xem: 8446)
Nhiều thuật ngữ trong Đạo Pháp mang tính cách thật căn bản chẳng hạn như Giác ngộ hay sựQuán thấy sáng suốt(Bodhi),Vô thường(Anitya), sự Tương liêngiữamọi hiện tượng hay Lý duyên khởi(Pratityamutpada), v.v... Trong số này cómột thuật ngữ khá quan trọng là Khổ đau(Duhkha), tuy nhiên thuật ngữ này tươngđối ít được tìm hiểu cặn kẽ, có lẽ vì khổ đau là những gì quá hiển nhiên ai cũngbiết. Thật vậy tất cả chúng sinh đều gặp khó khăn nhiều hay ít không có một ngoạilệ nào cả.Lạm Bàn Về Khái Niệm « Khổ Đau » Trong Phật Giáo - Hoang Phong
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]