Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm và tướng

25/09/201201:43(Xem: 7623)
Tâm và tướng
TÂM VÀ TƯỚNG
Thành Văn

tamvatuong-thanhvanTheo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả. Quả có quả lành, quả ác do bởi tâm lành ác sinh ra. Tu là sửa cái tâm; tức cái nhân để có thể nhận được quả theo ý muốn.

Để cái tâm chạy theo trần cấu nhiều đời nhiều kiếp thành thói quen, thành nghiệp. Nghiệp sẽ lôi kéo chúng sanh đi theo con đường mòn nó đã vạch ra, không có gì cưỡng lại được.

Vấn đề rất sâu rộng. Ở đây người viết chỉ dám bàn lướt qua mối tương quan nhân/ quả giữa tâm và tướng.

Trong dân gian quần chúng sáng tác ra rất nhiều truyện ảnh hưởng đậm nét của tinh thần Phật giáo. Một trong những câu chuyện đó người viết được nghe kể như sau:

Xưa, có một chàng nho sinh nhà nghèo lắm, không có tiền mua dầu thắp để học đêm. Mỗi tối chàng đều phải đến ngôi chùa gần nhà để xin sư cụ cho học nhờ dưới ánh sáng của những ngọn đền dầu trong chùa. Nhà nghèo, biết thân phận nên anh học trò sống rất khiêm cung, lễ phép với mọi người. Chàng cố công dùi mài kinh sử mong đến ngày lai kinh ứng thí, đỗ đạt ra làm quan để trước ấm cái thân, sau là mở mày mở mặt với họ hàng làng nước

Trên con đường lên chùa, hàng ngày nho sinh phải đi ngang qua một cái miễu thổ thần, trước miễu có pho tượng nhỏ bằng đất nung. Pho tượng cũng mũ mãng cân đai, được đặt ngồi trên một bệ đá.

Nhiều năm trời như vậy, anh chàng chăm chỉ học hành. Một hôm khi vừa đi ngang qua miễu chàng ngạc nhiên thấy pho tượng bỗng nhiên đứng dậy, nghiêng người chào mình. Chàng ngạc nhiên lắm, bèn dừng chân lên tiếng lễ phép hỏi tượng:

- Tôi là gã nho sinh nhà nghèo, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ lành. Hàng ngày phải lên chùa nhờ ánh đèn dầu nơi cửa Phật để dùi mài kinh sử. Bấy lâu nay đi ngang đây đều có nghiêng mình chào thần. Nay sao bỗng nhiên thần đứng dậy như chiều thi lễ là tại lý do làm sao?

Tượng đất vẫn đứng vừa lên tiếng:

- Tôi vốn là thổ địa ở đây, hàng ngày chứng kiến ông qua lại. Trước đây thấy ông là nho sinh, tướng nghèo hèn, bần bạc. Lúc sau này bỗng tướng đổi khác. Tuy vẫn quần manh, áo vá, ốm yếu xanh xao, nhưng vẻ mặt và dáng đi đã lộ ra cách quyền quý giàu có. Tôi tra sổ thiên đình, thấy ông được thượng đế cho đỗ trạng nguyên kỳ này. Ông sẽ xuất chính làm quan to, cai quản cả vùng này. Tôi là thổ địa ở đây tất dưới quyền cai quản của ông, nên đứng dậy chào ông là vì thế.

Sinh nghe thổ địa nói thế lòng mừng khấp khởi. Ít lâu sau chàng đâm chểnh mảng chuyện học hành. Hàng ngày vẫn đến chùa xin học nhờ, nhưng đi trễ về sớm, không chuyên cần như xưa. Trước đây tính tình khiêm cung. Ai nói phải quấy gì cũng vâng dạ, kính già yêu trẻ. Nay, nghĩ mình sắp trở thành giai cấp cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nên cử chỉ thái độ thường tỏ ra khinh bạc. Không vừa lòng ai điều gì thường buông ra lời đe dọa.

Thời gian cứ thế trôi. Gần đến ngày triều đình mở khoa thi, nho sinh mừng thầm trong bụng ngày vinh hiển sắp đến. Thi đỗ ra làm quan, tha hồ võng lọng, vợ đẹp con xinh, của cải do dân đút lót chất đầy kho tha hồ ăn xài.

Lòng nghĩ thế, nên tuy vẫn hàng ngày ôm sách lên chùa học nhờ, nhưng mặt mày trở nên vênh váo, mắt chỉ nhìn lên, nên không để ý thấy tượng thổ địa vẫn chỉ ngồi im, không còn đứng dây chào khi thấy sinh đi ngang qua nữa.

Kịp gần đến ngày lên đường lai kinh ứng thí, một bữa đi ngang qua miễu sinh chợt để ý thấy chuyện thay đổi ấy nơi thổ địa, bèn lên tiếng hỏi:

- Trước ta đi ngang qua tượng vẫn đứng dậy chào. Nay sao lơ là, không chào nữa, là cớ làm sao?

Tượng vẫn ngồi, từ tốn trả lời: - Trước đây ông chăm chỉ học hành, lòng dạ khiêm cung, biết kính trên nhường dưới, nên cảm động đến trời. Thượng đế cho ghi tên ông vào bảng vàng, thi đỗ làm quan. Nay ông đổi tính, tâm địa ngạo mạn, bỏ bê học hành, thượng đế giận, ngài đã cho xóa tên ông trong bảng vàng rồi. Ông vẫn là bần sĩ, sao tôi lại phải chào ông?

Nho sinh nghe xong, mặt mày biến sắc, nhưng biết đã quá trễ. Kỳ thi ấy sinh cũng lều chõng đi thi, nhưng chẳng đỗ đạt gì.

Trong dân gian từ đó mới có câu “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”. Vẫn chàng nho sinh ấy, nhưng tướng thay đổi theo tâm. Tâm lành sanh tướng tốt. Tâm ác hiện tướng xấu là thế. Sách cũng có câu: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt” (Có tâm không tướng, tướng tự tâm mà sinh. Có tướng, nhưng không có tâm, tướng sẽ theo tâm mà diệt đi).

Trên đất Mỹ, ở một số nơi như thư viện, trường học, hội quán… người ta thấy có trưng bày những câu châm ngôn thế này:

Watch your thoughts, they become words.

Watch your words, they become actions.

Watch your actions, they become habits.

Watch your habits, they become character,

Watch your character, it becomes your destiny.

(Tạm dịch: Hãy canh chừng những tư tưởng của bạn/ Nó sẽ trở thành lời nói. Hãy canh chừng lời nói/ Chúng sẽ phát ra thành hành động. Hãy canh chừng hành động/ Chúng sẽ thành thói quen. Hãy canh chừng thói quen của bạn/ Chúng sẽ tạo nên nhân cách. Hãy coi chừng nhân cách bạn/ Nó sẽ trở thành số mệnh của bạn đấy.)

Bên dưới ghi tên tác giả là Frank Outlaw. Tuy nhiên nhiều người cho rằng nguồn gốc câu ấy không rõ ràng. Có người bảo câu ấy là của Thánh Gandhi.

Cho dù ai nói thì những phát biểu trên cũng phù hợp với quan niệm “Vạn pháp do tâm” của Phật giáo. Cái người ta gọi là số mệnh chẳng phải do một Thượng đế hay ông trời nào áp đặt, nó hình thành từ chính tư tưởng chúng ta.

Ở đây sẽ bàn về hai phương diện: tâm linh và khoa tâm lý học.

Người học Phật, không ai là không biết, một trong những luận đề cơ bản vị bổn sư là đức Phật cho đến các tổ sau này đều dạy tín đồ rằng “tâm là gốc của vạn pháp” (vạn pháp do tâm tạo). Các pháp khởi sinh, biến hóa, lành dữ đều do tâm. Người tu hành, trước hết là tu tâm. Sửa chữa, uốn nắn ngay từ cái tâm. Khi cái tâm đã ngay chính, mọi pháp theo sau sẽ trở nên ngay chính, trong đó có hình tướng.

Đức Phật, bậc đại giác đã hoàn toàn làm chủ tâm. Ngài đã tu tập trong nhiều kiếp, gột rửa tâm trở nên hoàn toàn trong sạch, nên trong kinh sách mô tả Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Những tướng tốt, vẻ đẹp của Phật là gì người theo Phật đã biết. Tựu trung đó là những nét thánh thiện, tốt lành gây nên lòng kính ngưỡng, mến mộ nơi kẻ nhìn. Đấy là một sắc tướng hoàn hảo theo một quan niệm nào đó của thế gian tương đối. Thực tế, khi đạt quả vị Phật, Đức Thế tôn đã vượt thoát ra khỏi mọi pháp thế gian. Ta thường nói “không thể nghĩ bàn”.

Cho nên nói “Phật có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp” cũng chỉ là cách nói ước lệ nhằm thỏa mãn sự ngưỡng vọng của người phàm phu chúng ta đối với bậc giác ngộ mà thôi. Chứ Phật đã nhập Niết bàn, tức chân lý tuyệt đối, vượt khỏi sự phân biệt, đối đãi nhị nguyên. Nên làm gì còn có đến 32 tướng, 80 vẻ dáng khác nhau?

Đến chùa chiền của những quốc gia khác nhau chúng ta thấy hình dáng vẻ mặt các pho tượng Phật cũng khác nhau. Người nước nào thì tạc tượng mang vẻ mặt người nước đó. Tượng Phật ở Thái Lan có khuôn mặt của người Thái. Tượng Phật ở Trung Hoa có vẻ mặt người Trung hoa. Phật ở Nhật Bản, ở Đại Hàn, ở Việt Nam đều có vẻ mặt khác nhau, mang đường nét của người nam nước ấy.

Từ đức Phật đầu tiên là người Ấn Độ, khi Phật giáo truyền qua các nước khác, nhân dạng ngài cũng đổi theo, trở thành người của nước khác.

Sau này giả sử đạo Phật trở nên thịnh hành ở Âu Mỹ, các tượng Phật sẽ có nét mặt của người Âu Mỹ. Tướng Phật theo tâm chúng sanh mà thành hình. Chùa chiền cũng vậy. Trang phục người tu sĩ và hàng phật tử cũng thế, đều theo tâm mà biến hiện.

Nói theo khoa tâm lý học, tư tưởng mỗi con người dự phần rất lớn tạo ra hình tướng của chính cá nhân con người ấy. Có những đứa bé khi còn nhỏ rất xinh đẹp, khi lớn lên mặt mũi, hình dáng thay đổi, không còn đẹp nữa, do bởi hoàn cảnh sống thay đổi. Những va chạm trong đời sống tạo nên trạng thái tâm lý thích ứng với hoàn cảnh. Do tâm địa, do nghề nghiệp mà những đường nét trên khuôn mặt, trong phong thái cử chỉ mà tạo thành tướng trạng.

Khoa bói toán, xem tướng chẳng qua cũng dựa trên những kinh nghiệm nhiều đời đúc kết lại để diễn giải dựa trên các quy luật về tâm lý.

Trong các truyện cổ tích và sau này truyện đem vào phim ảnh, các mụ phù thủy đều mang một nhân dáng và khuôn mặt xấu xí đanh ác: thân thể gầy gò, lưng còng, mặt mũi xương xẩu, má hóp, mũi như sống dao, khoằm xuống như mỏ diều hâu, đôi mắt lộ, tóc tai bơ phờ…Dĩ nhiên hình ảnh bà phù thủy được mô tả trong phim, truyện đều đã được người nghệ sĩ sáng tạo ra cố tình làm nổi bật cái tâm độc ác của mụ.

Trong thực tế, những kẻ mang tâm địa độc ác dù không đến nỗi luôn luôn phải mang bộ mặt xấu xí, nhưng trên nét mặt những hạng người ấy vẫn để lộ những nét hung dữ. Kẻ ác trong đầu họ thường suy nghĩ căng thẳng những mưu kế hại người. Tâm lý thù hằn ảnh hưởng trên các tuyến nội tiết và cơ thể họ thường xuyên tiết ra các độc tố, tràn vào trong máu, khiến sắc mặt họ thường u hãm, chứ không được tươi nhuận. Mắt nhìn thường đổ hào quang sắc lạnh. Kẻ khác nhìn vào có cảm giác ớn sợ.

Ngược lại, một người có tâm địa hiền lương, thường nghĩ đến điều lành, họ có tâm lý thoải mãi thư giãn, các cơ bắp, nhất là các cơ vùng mặt không ở trong trạng thái co thắt, nên khuôn mặt họ thường đầy đặn, sắc mặt tươi tắn, nhìn tự nhiên ta có cảm tình. Đối với nữ giới, có thể họ không đẹp, nhưng vẫn ưa nhìn. Ta gọi là có duyên. Phụ nữ có duyên, mặt mũi phúc hậu, khi lập gia đình họ thường có cuộc sống bình lặng hạnh phúc, ít gặp trắc trở bất hạnh trong hôn nhân.

Ngày nay khoa học tiến bộ, con người có tham vọng làm chủ mọi thứ bằng khoa học. Khoa giải phẫu thẩm mỹ có thể sửa chữa một số khuyết tật trên thân thể con người và quả thật nó đã đạt được một số thành quả. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy những kết quả đạt được rất hạn chế. Những bộ phận thân thể được cắt xén, tỉa gọt, căng kéo không duy trì được hình dáng tự nhiên và lâu dài. Nó thường để lại những di chứng và khi hết tác dụng nó trở thành thảm họa như nhăn nhúm, chảy xệ, biến dạng…cho chủ nhân chúng. Điều này rất dễ nhận thấy.

Trong khi đó, những người áp dụng phương pháp tu dưỡng nhằm sửa chữa cái phần tâm linh như thiền, yoga lại có thể đạt được kết quả khả quan và lâu dài hơn nhiều. Người ta thấy có những phụ nữ ở tuổi thất tuần, nhưng cử chỉ vẫn linh hoạt, khuôn mặt vẫn gọn ghẽ xinh xắn mịn màng như tuổi 50. Đó là sự thật. Tuy nhiên, nhiều khi con người ta không đủ tin tưởng và kiên nhẫn để thực hành. Hơn nữa sẵn tiền bạc, họ đi đến các thẩm mỹ viện cho nhanh và tiện.

Trong văn hóa dân gian của Việt Nam cũng như một số các quốc gia Á châu khác, người ta có phong tục khi người phụ nữ mang thai, gia đình thường chọn những hình vẽ những đứa bé xinh đẹp bụ bẫm để treo trong phòng người mẹ. Nếu người mẹ thực sự không làm nghề gì xấu ác và có tâm địa hiền hậu, thường họ sẽ sinh được những đứa con đẹp đẽ gần giống trong tranh vẽ.

Chính tâm lý (tâm) của người mẹ mang thai sẽ tạo thành hình tướng (tướng) đứa con qua những biến đổi bí mật trong từng tế bào của cơ thể họ.

Người ta còn tránh không để cho thai phụ phải chứng kiến chuyện dữ, phải nghe những lời ác. Sự hiểu biết về tâm lý trong văn hóa Việt Nam như vậy không hề kém so với những kiến thức về tâm lý học hiện đại.

Ngoài ra, trong dân gian còn có những hiện tượng đôi khi khó giải thích, nhưng qua chiêm nghiệm, người ta vẫn phải tin là có thật. Chẳng hạn như người làm nghề đồ tể giết heo nhiều năm thường có khuôn mặt phảng phất như mặt heo. Người ta cho rằng chính sự ám ảnh tâm lý trong một thời gian dài đã tạo ra những đường nét trên khuôn mặt người đồ tể. Những người chuyên làm thịt chó bán cũng thường mang bộ mặt hao hao giống loài vật họ giết. Rõ rệt nhất là những người làm nghề giết chó bán thịt đi đến đâu là chó sủa ran đến đó. Khi họ xuật hiện nhiều con chó bỗng nhiên sợ hãi quíu cả chân, đuôi cụp xuống, sủa không thành tiếng.

Các vị chân tu đạo hạnh cao cả, công đức sâu dày, nhiều khi sống rất âm thầm, ẩn dật, không hề có quyền chức địa vị, họ ăn mặc đơn sơ giản dị, nhưng người phàm phu khi được diện kiến bỗng nẩy sinh lòng tôn kính, mến mộ. Dường như xung quanh họ tỏa ra một lớp sóng từ rất lạ khiến người khác cảm thấy an lạc, dễ chịu. Những người như vậy không nhất thiết phải là những chức sắc có địa vị cao trong các giáo hội. Có thể họ chỉ là một bà lão bình thường, như Mẹ Théresa chẳng hạn hay sư cụ ở một ngôi chùa hẻo lánh ít ai lui tới. Chuyện về các thánh tăng thì vô số. Nhưng trong đời sống ai may mắn mới có duyên được diện kiến một vị chân tu./.

Thành Văn

Aug., 2012

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/05/2020(Xem: 12932)
Trưởng lão cư sĩ Hứa Triết (許哲, Teresa Hsu Chih, 7/7/1897-7/12/2011), trước danh Cư sĩ, danh tự tiếng Anh là “(Teresa, tiếng Trung: 德蕾莎)” tên tiếng Phạn là “Prema, (愛人)”, chào đời tại Sán Đầu, thành phố ven biển thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Sinh thời, bà đến lớp tiểu học năm lên 27 tuổi, học Y khoa chuyên ngành Điều dưỡng ở tuổi 47, thành lập một Viện Dưỡng lão độc lập ở tuổi 67, học Yoga (瑜伽) ở tuổi 69, học Phật ở tuổi 90, dụng công học tiếng Trung ở tuổi 100, và 101 tuổi quy y Phật môn.
29/05/2020(Xem: 6976)
Tâm thế gian là tâm tràn đầy ham muốn ích kỷ, những ai luôn sống với tâm này sẽ huân tập nhiều tập khí, lậu hoặc gọi chung là nghiệp. Nghiệp thì có nghiệp xấu và nghiệptốt. Nhưng đa phần người ta dính nhiều với nghiệp xấu hơn là nghiệp tốt. Đã tạo nghiệp, thì phải chịu luân hồi sinh tử để thọ quả báo.
27/05/2020(Xem: 7070)
Bài viết, kỷ niệm 50 ngày thành lập Cộng đồng đa dạng văn hóa tín ngưỡng gồm 10 quốc gia ASEAN!
27/05/2020(Xem: 5467)
Năm nay đánh dấu kỷ niệm 40 năm, kể từ khi Khánh thành Bảo tàng Khảo cổ Thung lũng Bujang (the Bujang Valley Archaeological Museum), tọa lạc tại Merbok, Kedah, một bang phía tây bắc của Bán đảo Malaysia.
27/05/2020(Xem: 8233)
Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”. Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita, người Trung hoa dịch nghĩa là “bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”. Đây là sáu món tu tập có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình từ bờ bên này, bờ vô minh của thế gian, vượt sang bờ bên kia, bờ giác ngộ của chư Phật. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước gồm có: “bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục”. Tu tuệ là “thiền định và trí tuệ”.
26/05/2020(Xem: 7498)
Nhà lãnh đạo tinh thần nhân dân Tây Tạng, cùng hòa điệu với các nhà khoa học nổi tiếng trong một bộ phim tài liệu với chủ đề tuyệt diệu đầy quyến rũ.
26/05/2020(Xem: 8489)
Nước ta ở vào địa thế phía Đông là biển cả bao la, phía Tây là dãy Trường Sơn trùng điệp, còn phương Bắc thì tiếp giáp với Trung Hoa, một quốc gia rộng lớn, hùng mạnh đã biết bao phen xâm chiếm nước ta, vì vậy dân tộc ta không còn sự chọn lựa nào khác hơn là phải nỗ lực tiến về Nam để tồn tại và phát triển. Trong các đợt mang gươm đi mở cõi, tộc Phạm có nhiều vị tướng tài giỏi, những nhà cai trị lỗi lạc đã giúp các vương triều hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại này.
26/05/2020(Xem: 10142)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
25/05/2020(Xem: 12951)
Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy (sinh năm 1947), vị học giả người Mỹ, Giáo sư, tác gia, Giáo thọ Thiền Phật giáo thuộc Tam Bảo giáo (Sanbō Kyōdan, 三寶教), truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Trưởng lão Cư sĩ David Robert chào đời tại Panama, khu vực kênh đào, (Đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Phương Nam của quân đội Mỹ). Thân phụ của ông trong đơn vị Hải Quân Hoa Kỳ nên gia đình được đi du lịch rất nhiều. Thuở nhỏ, ông học trường Carleton College, Minnesota, một tiểu bang vùng Trung Tây của Hoa Kỳ, và sau đó du học khoa triết học tại trường King's College London (informally King's or KCL), Vương quốc Anh.
23/05/2020(Xem: 7444)
Con người ta, kể cả Đức Phật, Bồ Tát, La Hán hay thánh tăng khi còn sống thì vẫn phải đi đây đi đó, tiếp xúc, gặp gỡ, giao tiếp với người này người kia trừ khi sống ẩn tu trong hang động, núi rừng. Trong khi tiếp xúc, gặp gỡ như thế có thể “đối cảnh sanh tâm”. Thí dụ, khi bước vào một nhà giàu, có thể thể nảy sinh lòng ham muốn. Khi thấy người ta đeo nữ trang quý giá có thể sanh tâm thèm muốn hay đua đòi. Khi gặp cô gái, anh chàng đẹp trai có thể sanh tâm yêu mến. Từ yêu mến có thể sanh tâm chiếm đoạt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]