Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyền thống an cư

19/06/201204:28(Xem: 7199)
Truyền thống an cư
TRUYỀN THỐNG AN CƯ
Khánh Uyên

truyenthongancu-khanhuyenKhông như các tôn giáo khác có thể có những cấm điều hay định chế được thiết lập sẵn dựa theo chủ quan của vị giáo chủ, mọi định chế của Phật giáo đều xuất hiện sau khi Tăng đoàn đã được thành lập. Đức Phật vốn là người tự mình đạt tới giác ngộ giải thoát, sau đó, đã vì lòng từ mà trao truyền trí tuệ của Ngài cho muôn loài. Vì không có ý định xây dựng một tôn giáo để đóng vai giáo chủ, Đức Phật hoàn toàn không có thiên kiến chủ quan trong việc thiết lập nghi thức sinh hoạt, chỉ căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của Tăng đoàn mà ấn định luật cho Tăng chúng. Rất nhiều trường hợp, chính cộng đồng chấp nhận Tăng đoàn của Đức Phật đã có những đóng góp cho việc xây dựng truyền thống sinh hoạt của Tăng đoàn. Truyền thống an cư là một minh chứng cụ thể nhất.

Dưới thời Đức Phật, không khí truy cầu chân lý ở Ấn Độ hết sức nhiệt náo. Nhiều giáo đoàn rao giảng các luận thuyết khác nhau về sự hình thành vũ trụ, về bản chất của cuộc sống… Nhiều người từ bỏ đời sống gia đình tham gia sinh hoạt cúa các giáo đoàn, sống cuộc sống khổ hạnh hay truy lạc tùy theo niềm tin của mình với mong ước thực hiện chân lý giải thoát. Họ đi khắp xứ Ấn Độ để truyền giáo và thu phục tín đồ. Tuy nhiên, vào mùa mưa, họ có thể quy tụ lại với nhau ở một số trú xứ nhất định hoặc giải tán chờ đến lúc tập họp lại. Mặt khác, trong thời gian liên kết với các giáo đoàn loại này, vị tu sĩ vẫn có những liên hệ với gia đình. Tăng đoàn của Đức Phật hoàn toàn khác. Tỳ-kheo thuộc Tăng đoàn của Đức Phật hoàn toàn sống theo hạnh viễn ly, lấy trung đạo làm phương châm, thực hiện việc khất thực để duy trì thọ mạng, tài sản chỉ có ba y một bát, buổi sáng vào làng khất thực, trước giờ ngọ tìm chỗ thọ thực, thời gian còn lại thực hành quán niệm hay thiền định để hiểu rõ lời Phật dạy và chứng đạt chân lý. Cuối cùng, các Tỳ-kheo nghỉ chân dưới một gốc cây có tán lá, một tảng đá, hay một hang động, gần nơi có nước, không quá xa làng mạc, ở chỗ tránh được rủi ro về ác thú, cướp bóc… Đặc biệt, các Tỳ-kheo không được ở quá ba đêm tại cùng một chỗ. Đây là biện pháp nhằm triệt để tiêu diệt tâm sở hữu, vì ngay cả chỗ nghỉ chân giữa nơi khoáng dã cũng không phải là “gốc cây, tảng đá, hay hang động của tôi” để có thể củng cố quan niệm ngã sở. Như thế, trong giai đoạn đầu, Tăng đoàn của Đức Phật hoàn toàn không có trú xứ nhất định. Vào mùa mưa, các Tỳ kheo cũng vào làng mạc khất thực và điều này có nhiều bất tiện. Mùa mưa là lúc cây cối đâm chồi nảy lộc, trời mưa làm nước tràn ngập mặt đất ảnh hưởng đến hang ổ của các loài bò sát, côn trùng. Khi đi lại trong mùa mưa, các Tỳ-kheo làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây cối, có thể dẫm đạp lên côn trùng hay bò sát nhỏ mà không biết, lại có thể bị các loài nọc độc tấn công; ngoài ra thói quen ngủ nơi khoáng dã của các Tỳ-kheo không thực hiện được. So sánh với việc an trú trong mùa mưa của các giáo đoàn khác, dân chúng chỉ trích việc đi lại trong mùa mưa của Tăng đoàn Đức Phật. Công nhận sự chỉ trích đó là chính đáng, Đức Phật thiết lập quy định cho các Tỳ-kheo được tìm chỗ trú ngụ trong ba tháng mùa mưa. Điều khác biệt với những giáo đoàn khác nằm ở chỗ, đệ tử Phật an cư ba tháng không chỉ để tránh đi lại trong mùa mưa, mà còn tận dụng thời gian ở yên một chỗ để thực hiện việc tu học và giáo hóa một cách tích cực.

Thực ra, từ chỗ hằng ngày các Tỳ-kheo đi chung với nhau theo từng nhóm nhỏ vài ba người vào làng mạc khất thực trong buổi sáng rồi đến trước giờ ngọ tìm một chỗ nghỉ ngơi, thọ thực, kinh hành, thiền định, quán tưởng, tu học… đến chỗ tập trung một số khá đông Tỳ-kheo vào một nơi sống chung với nhau trong suốt ba tháng mùa mưa, đáng lẽ đã đòi hỏi Tăng đoàn của Đức Phật phải có sự chuẩn bị và đặt ra cho Tăng đoàn rất nhiều việc phải giải quyết. Tuy nhiên, Tăng đoàn của Đức Phật đã có những cơ duyên thuận lợi. Vào năm thứ ba kể từ khi Đức Phật chứng đạo, Tăng đoàn đã quy tụ cả ngàn Tỳ-kheo. Bấy giờ Đức Phật và chúng đệ tử đi lên phía Bắc đến xứ Ma-kiệt-đà trú ở một ngọn đồi ngoài thành Vương Xá. Sự xuất hiện của một đoàn Tỳ-kheo đông đảo sinh hoạt có quy củ đã khiến Tăng đoàn giành được sự ngưỡng mộ của dân chúng. Tiếng tăm của Tăng đoàn đã vang đến tai vị vương chủ xứ Ma-kiệt-đà là vua Tần-bà-sa-la. Vị vua này đã từng gặp Đức Phật khi Ngài còn tu khổ hạnh. Biết người tu khổ hạnh đó chính là thái tử Tất-đạt-đa dòng Thích-ca ở thành Ca-tỳ-la-vệ, nhà vua thỉnh Đức PHật cùng Tăng đoàn vào thành nhận sự cúng dường và được nghe Đức Phật thuyết pháp. Hoàn toàn kính phục và mến mộ trí tuệ và uy đức của Phật, nhà vua Tần-bà-sa-la xin quy y và dâng cúng khu rừng trúc làm trú xứ cho Tăng đoàn. Nhà vua cho xây tịnh xá và cung cấp đầy đủ tiện nghi để Đức Phật và chúng Tỳ-kheo có nơi an trú, nơi đó gọi là tịnh xá Trúc Lâm. Khoảng tháng 4, tháng 5 âm lịch năm ấy (lịch Ấn Độ gọi là tháng Vesakha), Đức Phật và chúng Tỳ-kheo đã thực hiện mùa an cư đầu tiên của Tăng đoàn tại đó .

Sau mùa an cư này, Đức Phật cùng chúng đệ tử vượt sông Hằng trở lại thành Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ vua Tịnh Phạn là phụ thân của Đức Phật cùng toàn thể hoàng gia đều xin quy y với Phật làm đệ tử tại gia; ngoài ra một số lớn các vị hoàng tử đã xin gia nhập giáo đoàn. Khi rời Ca-tỳ-la-vệ với ý dịnh trở lại an cư tại thành Vương Xá thì Tăng đoàn của Đức Phật được một vị trưởng giả là Cấp-đô-độc mời thỉnh về thành Xá-vệ thuộc xứ Câu-tac-la để an cư tại tịnh xá Kỳ viên được xây dựng trên ngôi vườn của thái tử Kỳ Đà mà ông đã mua được với cái giá “tấc đất, tấc vàng”.

Lịch sử ghi nhận sau mỗi mùa an cư đều có các vị Tỳ-kheo chứng đắc thánh quả. Qua các mùa an cư đó, quy tắc về việc tổ chức an cư đã được ấn định thật tỉ mỉ. Do Tăng đoàn đã phát triển đến hàng ngàn người, Đức Phật cho phép các Tỳ-kheo tụ tập thành từng nhóm với quy mô thích hợp. Tự xây dựng lều làm nơi cư ngụ trong mùa mưa. Ở một khu đất rộng rãi, các lều làm bằng vật liệu nhẹ có thể được dựng thành từng dãy và có thể dựng thành gác cao hai hay ba tầng, có phòng rộng làm chỗ hội họp. Mỗi trú xứ có một phạm vi được ấn định bởi các đường ranh gọi là cương giới. Trong phạm vi đó các Tỳ-kheo sinh hoạt tập thể suốt ba tháng theo các quy định nghiêm ngặt. Một tập thể được công nhận là Tăng-già phải hội đủ bốn vị Tỳ-kheo, trong đó phải có vị đã từng dự an cư trong các mùa mưa trước làm thượng thủ. Tăng-già không hạn định số lượng tối đa. Khi Đức Phật đã chấp nhận phát triển Ni giới, các quy định về an cư cho Tỳ-kheo Ni cũng được quy định thật chặt chẽ. Với những quy định về an cư, từng bước Tăng đoàn của Đức Phật trở thành một giáo đoàn có đời sống định cư, thực sự thể hiện tinh thần nhập thế thông qua việc giáo hóa hàng bạch y trong thời gian tu tập miên mật suốt ba tháng tại một nơi cố định.

Trải qua hơn 2.500 năm truyền bá và phát triển truyền thống an cư mùa mưa của Tăng đoàn Phật giáo vẫn được duy trì. Tuổi đạo của một vị tu sĩ được tính theo số mùa an cư mà vị ấy đã tham dự. Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ, xứng đáng làm ruộng phước cho hàng Phật tử tại gia, mà chính những người Phật tử tại gia cũng có điều kiện thực hiện vai trò “cận sự”. Trong lúc chuẩn bị mùa an cư, Phật tử cúng dường các phẩm vật cần thiết giúp chư Tăng Ni tu tập suốt ba tháng. Trong quá trình an cư của chư Tăng Ni, Phật tử thường xuyên lui tới tham học, giúp đỡ việc tổ chức sinh hoạt của chư Tăng Ni, nhờ đó tạo được công đức thiết thực trong hành trình tu học. Nhiệt tâm của hàng Phật tử tại gia góp thêm một động lực khiến chư Tăng Ni tinh cần trau dồi giới đức. Sự tinh cần của chư Tăng Ni củng cố tín tâm của hàng Phật tử tại gia. Khi hiểu rõ ý nghĩa của truyền thống an cư, một mùa an cư được tổ chức và thực hiện chu đáo thực sự sẽ mang lại lợi lạc cho mọi người con Phật, dù xuất gia hay tại gia.

Khánh Uyên
(Văn Hóa Phật Giáo 131)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2015(Xem: 9071)
Bàn về lòng vị tha - một ấn phẩm dày 900 trang do Matthieu Ricard - nhà khoa học, nhà sư người Pháp viết và được Nhà xuất bản Nil tổ chức ấn hành. Bài phỏng vấn sau đây được thực hiện bởi Mạng nghiên cứu Cles.com với chính tác giả.
14/05/2015(Xem: 6875)
Xin đại chúng giữ gìn trang nghiêm cho tâm được yên lắng để nghe pháp thoại. Quý vị cùng với tôi thực tập, theo dõi ba hơi thở vào và ra. Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào; Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra.
14/05/2015(Xem: 10007)
“Để có hạnh phúc chân thật, bạn phải chuyển hóa những năng lượng tiêu cực do chính bản năng của bạn tạo ra, phải tìm lại bản chất chân thật của hợp thể con người bạn mà đất trời đã trao tặng”, thầy Minh Niệm, tác giả cuốn Hiểu về trái tim, cộng tác viên của Giác Ngộ từ nhiều năm nay, mở đầu cuộc trò chuyện với Giác Ngộ khi phóng viên hỏi về “hạnh phúc chân thật” mà thầy đề cập trong sách. Tiếp tục cuộc trò chuyện, ĐĐ.Thích Minh Niệm cắt nghĩa thêm:
08/05/2015(Xem: 12902)
Lúc mọi người muốn ông ta chứng minh lời mình nói là đúng, ông ta liền cao giọng nói như thách thức Đức Phật: “Đức Phật quả thực Người có linh, hãy xuống đây, trước mặt rất đông mọi người hãy ban phước hay giết chết tôi đi, thì tôi sẽ tin là người thực sự có tồn tại”, ông ta cố ý lặng yên chờ mấy phút nữa, đương nhiên là Đức Phật không xuống để ban phước hay giết chết ông ta. Ông ta liền nhìn mọi người xung quanh và nói “mọi người thấy rồi đấy, Đức Phật vốn dĩ là không tồn tại”.
07/05/2015(Xem: 8677)
Steve Jobs (1955-2011), người sáng lập Hãng Apple Computer, đã có lúc tu tại Ấn Độ, trong bài nói chuyện với các sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Stanford năm 2005, kể ba câu chuyện như là lời nhắn nhủ thân tình với những sinh viên tốt nghiệp, sắp bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời:
07/05/2015(Xem: 7397)
Tâm linh là sự kiện phi vật thể, đối lập với duy vật. Hầu hết các tôn giáo đều mang tính chất tâm linh; tín ngưỡng tâm linh của các tôn giáo không thuần nhất, tùy trình độ, căn cơ và khuynh hướng của mỗi loại tín ngưỡng mà có chánh tín và tà tín.
07/05/2015(Xem: 13796)
(Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn Độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.) - Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng giáo hội của Đức Tôn Sư trong sạch, quý báu, cao thượng lắm phải chăng? - Tâu, vâng. - Trong giáo hội ấy, tất cả Tăng chúng và Ni chúng đều là người đã chứng đắc các quả vị thanh tịnh cả chăng?
06/05/2015(Xem: 8535)
Đời sống là một chuỗi những câu chuyện xen lẫn nhau, không phải là những khái niệm. Khái niệm thì khác xa với sự thật. Do vậy, một câu chuyện được kết cấu với tình tiết phong phú và có ý nghĩa thì gần gũi với đời sống thực tế. Đó là lý do tại sao chúng ta dễ dàng liên hệ với đời sống qua các câu chuyện hơn là những lý thuyết trừu tượng. Và đó cũng là lý do mà thầy Ajahn Brahm - tu sĩ người Anh, Tu viện trưởng rừng thiền Bodhinyana và là Giám đốc hội Phật học Tây Úc - chọn cách giảng dạy, trình bày pháp thông qua những câu chuyện.
01/05/2015(Xem: 8717)
HỎI: Tôi vì học tập và công việc nên sống xa nhà, hiện đang ở trọ một mình. Gia đình tôi thờ Phật, trước đây mỗi ngày tôi đều tụng kinh, lạy Phật. Hiện nơi tôi ở trọ cách chùa rất xa, việc đến chùa lạy Phật hàng ngày rất khó khăn. Gần đây, tôi được người quen tặng một bức tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi vui lắm và mong được thờ Ngài trong phòng để tiện tụng niệm, lễ bái. Nhưng tôi rất băn khoăn vì phòng trọ rất nhỏ hẹp, bạn bè thường hay tới chơi, đôi khi có cả bạn trai của tôi đến nữa. Xin hỏi, tôi thờ Bồ-tát có trong phòng trọ có được không? Nếu được thì quy cách như thế nào để không phạm lỗi bất kính?
01/05/2015(Xem: 30319)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]