Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bóng sắc

05/07/201208:34(Xem: 8154)
Bóng sắc
BÓNG SẮC
Quảng Tánh

bongsac-quangtanhNgười đẹp thì dù đi tu, đầu cạo trọc, khoác cà-sa vẫn đẹp. Ở đời cũng như trong đạo, khả ái và dễ thương là một phước báo. Tuy vậy lợi điểm này đôi khi cũng bất cập hại và không ít người tu phải lao đao vì cái "đẹp" của mình.

Đẹp thì dễ thu hút người khác phái, dẫu xuất gia tu hành ly dục đi nữa cũng không ngăn được lòng trần của người thế tục mến mộ mình. Xưa, nàng Matanga (Ma Đăng Già) từng mê mệt Tôn giả Anandà đến mất ăn bỏ ngủ, rồi dùng cả chú thuật để dụ dẫn ngài ân ái nhưng không thành và cuối cùng đành chấp nhận xuất gia để lâu lâu được lén nhìn người trong mộng. Sau nhờ Matanga chứng A la hán (một quả vị tâm hoàn toàn thanh tịnh, hết sạch mọi phiền não, ái dục) nên mọi chuyện thành ra nhẹ nhàng. Đường Tăng khi thân hành qua Tây Trúc cầu pháp, thỉnh kinh, trong gần một trăm kiếp nạn thì nạn bị ma nữ mến thương không phải là ít… nhưng rồi ngài cũng vượt qua được hết để viên thành đại nguyện.


Điều đáng nói là, người tu vượt qua sự mến mộ vấn vương luyến ái của người khác phái tuy chẳng dễ, cũng lắm trần ai nhưng vượt qua sự chấp thủ và luyến ái tự ngã, yêu thương chính mình mới thực sự vô vàn khó khăn…


Tích truyện Pháp cú
kể rằng: “Ni cô Rùpanandà gia nhập Ni chúng không phải với lòng tin mà vì lòng thương gia quyến. Cô có vẻ đẹp tuyệt trần nên được đặt tên Rùpa. Một hôm, nghe Thế Tôn giảng: "Cái đẹp của sắc là vô thường, hệ lụy với khổ đau, phi thực; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy". Cô cho rằng Thế Tôn chỉ nhìn thấy cái xấu trên thân thể, bởi còn nhiều cái rất đẹp để nhìn, rất xinh để ngắm. Do đó, cô không thích diện kiến Thế Tôn.

Rồi một hôm Rùpanandà có ý định đi nghe pháp. Ni chúng rất vui mừng vì từ lâu cô không muốn đến hầu Phật, có cô chắc Ngài sẽ thuyết pháp với nhiều chi tiết thú vị hơn.

Thế Tôn biết trước Rùpanandà đến đảnh lễ. Và để dạy dỗ người quá đắm trước thân mình, để làm tiêu tan lòng kiêu hãnh của nàng vì ỷ có sắc đẹp, Ngài dùng chính sắc đẹp thân thể làm phương tiện giáo hóa, giống như phải dùng gai lễ gai. Thế Tôn liền hiện thần thông: Một thiếu nữ mười sáu xuân xanh đẹp chưa từng thấy mặc bộ y phục đỏ thẫm, trang điểm với tất cả món trang sức, đứng hầu bên Thế Tôn, cầm quạt phe phẩy. Chỉ có Phật và Rùpanandà trông thấy cô gái.

Rùpanandà vào tinh xá rồi quan sát Thế Tôn từ đầu đến chân. Ngài rực rỡ xán lạn với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Rùpanandà thấy cô gái đứng cạnh Phật có gương mặt rực sáng như trăng rằm. Ngắm lại thân mình, cô thấy chẳng khác gì con quạ đen đang đứng trước con ngỗng chúa sắc vàng. Cô say mê những nét đẹp của người thiếu nữ và thầm mong mình cũng được như thế. Thế Tôn biết được ý tưởng của cô nên bắt đầu thuyết pháp. Ngài hóa hiện thiếu nữ từ mười sáu tuổi lên hai mươi tuổi. Rùpanandà nhận ra ngay bóng sắc này không bằng trước đây. Rồi thiếu nữ thành thiếu phụ một con, đến trung niên và cuối cùng là một lão bà già khụ. Rùpanandà theo dõi từng giai đoạn biến đổi cho đến khi là bà lão răng rụng, tóc bạc, lưng còng oằn xuống, tay chân run rẩy. Thấy vậy, Rùpanandà không khỏi nhàm chán, ghê sợ sắc thân. Cuối bài thuyết pháp, Phật hóa hiện bà lão lâm bệnh, đau đớn kêu thét, té xuống đất, lăn lộn cùng với các vật dơ uế. Bà lão chết rồi, thi thể bà trương phồng, từ chín lỗ máu mủ chảy ra. Quạ và chó bu đến, nhào lên người bà xé xác… Sự kiện này làm Rùpanandà chấn động thực sự. Cô thấy rõ ngay chính thân này sẽ già đi, lâm bệnh rồi chết. Từ cái thấy về bất tịnh và vô thường ấy, khiến tâm Rùpanandà đi vào thiền định.

Thấy vậy, Phật đọc kệ khai thị, Rùpanandà chứng quả Tu đà hoàn. Sau, Rùpanandà chứng đắc Thánh quả A la hán”.


Ni cô Rùpanandà xuất thân từ hoàng tộc, là công chúa dòng họ Thích xinh đẹp. Khi xuất gia rồi cô vẫn tự hào về vẻ đẹp của thân thể mình. Rùpanandà không hài lòng và không chấp nhận lời nhận định "Cái đẹp của sắc là vô thường, hệ lụy với khổ đau, phi thực" của Đức Phật.


Điều này cũng là lẽ thường đối với những ai nhìn thân này cạn cợt nơi hình thức bên ngoài. Và công bằng mà nói, nếu chỉ nhìn bên ngoài thôi thì thân này "còn nhiều cái rất đẹp để nhìn, rất xinh để ngắm" đấy chứ!? Nhưng đối với người dấn thân cầu giác ngộ thì phải rèn luyện cái nhìn sâu sắc hơn, thấy rõ bản chất sự vật y như chính nó, không thể khác được. Do vậy, cái thấy về sự thật này đôi khi thật lạnh lùng, trần trụi, thậm chí gần như tàn nhẫn nhưng lại xác thực với chân lý và có khả năng trị liệu, chuyển hóa ái dục, nhất là tham ái tự ngã rất hữu hiệu.

Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thường và phi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm, suy ngẫm của hành giả. Đẹp thì dễ sinh tham ái, chấp thủ và hệ quả kéo theo là khổ đau. Ngược lại, thấy rõ như thật thân này là vô thường, bất tịnh thì ly tham, ly dục ắt thảnh thơi và tự tại.

Ni cô Rùpanandà nhờ Phật hiện thần thông nên thiền quán về thân thể mà siêu việt từ phàm phu lên Thánh giả. Thần thông ấy Đức Phật vẫn thị hiện cho chúng ta trong những biến động của cuộc sống hàng ngày nhưng liệu có ai nhận ra để chuyển hóa như Rùpanandà không? Và đó cũng là việc của tự thân mỗi hành giả cần phấn đấu và thành tựu.


Quảng Tánh
http://www.thichquangtanh.com/
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6365)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6393)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5544)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3881)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3972)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4740)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4751)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5126)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5271)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6548)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]