Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận về Bồ đề tâm

26/06/201210:24(Xem: 14239)
Luận về Bồ đề tâm
Bo_Tat_Quan_Am_2
LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM

Kỳ I: Ý nghĩa bồ đề tâm
và nội dung khuyến phát bồ đề tâm

Nguyên Tuệ

Phàm làm người, nhìn chung ai cũng có một ước mơ, một lý tưởng và suốt đời phấn đấu để đạt được mục đích. Có người muốn mình là bác sĩ giỏi, có người muốn trở thành một thương gia hay triệu phú. Cũng có người muốn là một nhà giáo, phóng viên, diễn viên, ca sĩ... để lưu danh trong thiên hạ.

Nhưng tất cả mọi ước mơ, mọi hành động đều xây dựng trên bản ngã tầm thường, mọi người có nó vì có ái trọng tự ngã của mình và làm mọi việc để phục vụ cho thiên thần của họ chính là cái “Ta” của mỗi người. Cũng đồng là chúng sanh, nhưng nhờ thiện duyên từ bao đời kiếp, chúng ta được thân người, được nghe Phật pháp, được sống trong chánh pháp làm đệ tử của Phật phải có một chí hướng như thế nào cho cuộc sống? Quy Sơn cảnh sách nói: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương” (Phàm xuất gia là bước đến một chân trời cao rộng).

Trong quyển Hành Bồ Tát Hạnh có nói : “Từ lúc những chúng sanh đáng thương bị vướng vào ngục sinh tử, biết phát tâm bồ đề là họ được phán danh hiệu con của chư Phật”, hay nói cách khác hơn con Phật điều tất yếu là phải phát Bồ đề tâm.

Ý nghĩa Bồ đề tâm

Trí tuệ của thuật ngữ Bồ đề được xuất phát từ “dục tâm sở” trong “ngũ biệt cảnh”. Bồ đề nghĩa là giác. Trong ấy có ba bậc: Thanh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề và Phật bồ đề. Sám Hồng Danh viết “Dục tâm sở không cầu thanh văn và duyên giác cho đến quả vị Bồ tát mà duy y tối thượng thừa cầu vô thượng Bồ đề nên gọi là Bồ đề tâm”. Vậy Bồ đề tâm hay là tâm “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” đó là chí hướng cao cả của một người con Phật. Kinh nói: “Bồ đề tâm là nhân, đại bi là cơ bản, là phương tiện, là cứu cánh”. Ví như người đi xa, trước tiên phải nhận định mục đích sẽ đến, phải ý thức chủ đích của cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương tiện hoặc xe hoặc thuyền mà khởi tiến. Người tu cũng thế, trước tiên phải lấy quả vị vô thượng Bồ đề làm mục tiêu cứu cánh, lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thực hành, sau đó tùy sở thích căn cơ, lựa chọn pháp môn để vững tiến trên đường đạo dưới ánh hào quang Bồ đề tâm chói lọi.

Trong một quyển kinh nói: “Như châu ngọc trong biển cả sáng hơn tất cả sỏi đá của lục địa phương Nam. Những người phát tâm Bồ đề trong dòng thức của họ sáng chói hơn tất cả thanh văn và duyên giác”. Khi có người phát Bồ đề tâm, quả đất và tất cả pháp tòa của chư Phật đều rung động. Chư Phật chư Bồ tát muốn xem bất cứ người nào phát Bồ đề tâm là anh chị em của họ vì người có Bồ đề tâm ấy sẽ dẫn đạo nhiều hữu tình và gây một chấn động lớn trong cõi sinh tử. Người phát tâm ấy sáng chói hơn cả thanh văn, duyên giác là nhờ năng lực lòng vị tha của họ.

Vào thời đức Phật có một người hành khất cúng đức Phật một cây đèn dầu nhỏ với tâm Bồ đề. Ngài A-nan không dập tắt được cây đèn ấy và đức Như Lai đã dạy rằng ngay cả ngọn cuồng phong thời kiếp tận cũng không thể dập tắt được do sự tăng trưởng liên tục của công đức. Khi làm việc với sự điều động của tâm Bồ đề thì bất cứ việc gì ta làm cũng sẽ đem lại những lợi lại cho hữu tình.

Chính vì vậy, những Đại Bồ tát còn có thể chuyển điều phi phước thành ra phước lành vì họ làm mọi việc với tâm Bồ đề. Nếu bố thí cho hàng trăm hàng ngàn chúng sanh trong vô số kiếp mà không có tâm Bồ đề thì nghiệp quả cuối cùng cũng chấm dứt.

Nội dung Khuyến phát Bồ đề tâm

Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy. Song những văn bản có những nét đặc sắc không giống nhau.

Nếu trong bản phát Bồ đề tâm luận của Ngài Thế Thân cho ta thấy phảng phất tâm linh con người rạt rào và rộng mở thì văn bản của Ngài Tĩnh Am đứng trên phương diện phân tích tâm lý và đạo đức đã chỉ rõ cho chúng ta thấy con đường đi hay một ý tưởng cao cả của cuộc sống đó là phát Bồ đề tâm để con người tiến dần về với cuộc sống bao la, vô cùng, vô tận.

Ngài nêu rõ trên bước đường từ bản nguyện thế gian đến thành tựu tâm nguyện Bồ đề đã đi qua bao nhiêu yếu tố tâm lý tốt xấu, cao thấp không đều nhau, gọi là các tướng của tâm nguyện Bồ đề. Và trên con đường hướng thiện ấy biết bao nhiêu nhân duyên liên hệ kích động đến chí nguyện Bồ đề ấy thành tựu hơn gọi là nhân duyên phát tâm. Hay nói khác hơn văn bản này nêu lên ý tưởng sống cao cả cho hàng Phật tử và đồng thời nêu lên tiêu chuẩn hoạt động cho sự sống đó. Trước hết Ngài phân tích tâm ta có tám hướng, chữ “hướng” ở đây chỉ nêu lên một phần sinh động của nội tâm.

Thật ra, sự sinh hoạt của nội tâm là một dòng diễn biến có thể vượt ra ngoài không gian vô cùng, thời gian vô tận. Tuy nhiên, ở đây tác giả có ý muốn chúng ta dừng lại, nhìn nội tâm ở một góc độ tương đối, vì thế nói tâm có tám hướng đó là: tà, chánh, chơn, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.

Có những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại hay mong quả phước tương lai mang phát lòng Bồ đề. Phát tâm như thế gọi là tà.

Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui, cùng mong quả phước; chỉ vì thoát vòng sinh tử, tự mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ đề, phát tâm như thế gọi là chánh.

Mỗi niệm trên cầu vì Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng không sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đối đảnh, như leo tháp quyết đến chóp, phát tâm như thế gọi là chơn (thật).

Có tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường như trong sạch, trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn, sau lười biếng. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, tuy có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm, phát tâm mà còn những điều này gọi là ngụy.

Coi chúng sanh hết nguyện ta mới hết, Bồ đề thành nguyện mới thành, phát tâm như thế gọi là đại.

Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người, phát tâm theo quan niệm này gọi là tiểu.

Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt, phát tâm như thế gọi là thiên.

Biết chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức mà không thấy mình có tu, độ chúng sanh mà không thấy chúng sanh được độ, phát tâm như thế gọi là viên.

Sau khi biết rõ tám hướng, chúng ta phải thẩm định hướng nào phù hợp với cái gọi là phát Bồ đề tâm. Đương nhiên phải hướng nội tâm sinh hoạt theo hướng mà chánh văn gọi là chánh, chơn, đại, viên; phải bỏ cái gọi là tà, tiểu, ngụy, thiên. Biết chọn điều hướng sinh hoạt đó để phát triển nội tâm thì có thể thành tựu tâm nguyện Bồ đề, như vậy mới là chơn chánh phát Bồ đề tâm.

Sau sự phân tích tâm lý này, ngài Tĩnh Am lại đặt tâm nguyện qua những điểm đạo đức. Ngài không giải quyết vấn đề một cách trừu tượng khó hiểu, vì đạo vị không thể đánh giá bằng hình thức đạo đức bên ngoài, đạo vị là hương vị của cuộc sống hiểu mình, hiểu người, vì mình và vì người. Ngài chú trọng mật thiết về vấn đề thể hiện đạo đức trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt đó là lòng biết ơn. Sống đạo đức là sống tích cực về mọi phương tiện. Ngài Tĩnh Am kêu gọi đồ chúng trong việc tu học hằng ngày cần phải chú trọng mười điểm, đó là mười nhân duyên phát tâm. Mười nhân duyên ấy là: Vì nghĩ đến ân Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn Sư trưởng, vì tưởng ơn tín thí, vì lo khổ sanh tử, vì tôn trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, và vì cầu sanh tịnh độ.



LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM
Kỳ 2: Những huấn thị về bồ đề tâm
và làm thế nào phát bồ đề tâm

Nguyên Tuệ


Trong nội điển thuyết minh rất nhiều về Bồ đề tâm, ở đây chỉ trích lục ít đoạn trong kinh Hoa Nghiêm.

“Nầy Thiện nam tử! như người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới biết cách để bắn. Cũng thế Bồ tát muốn học đạo nhất thiết trí của Như Lai phải an trụ nơi Bồ đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu song tất cả đại thần đều kính nể. Cũng thế Bồ tát tuy mới phát Bồ đề tâm tu Bồ tát hạnh, song tất cả kỳ cựu hàng nhị thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện nam tử! máy bằng gỗ nếu không có mấu chốt thì các tành phần rời rạc chẳng thế hoạt động.

Cũng thế Bồ tát nếu thiếu Bồ đề tâm thì các hạnh đều phân tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! như chất kim cương tất cả các vật khác không thể phá hại, trái lại có thể phá hại tất cả các vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ đề tâm của Bồ tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp giáo hóa chúng sanh tu các khổ hạnh, việc hàng nhị thừa không thể làm đều được, song vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư”.

Ngài Phổ Hiền Bồ tát bảo: “Thiện nam tử! Bồ tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt khổ cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ nên mới phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt sự ngu tối cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì đem Phật trí cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì cung kính cúng dường chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo của chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn biểu hiện tất cả các đức lụy vô úy của chư Phật nên mới phát Bồ đề tâm”.

Như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn và chư Bồ tát đã thuyết minh rộng rãi về công đức của Bồ đề tâm, trên đây chỉ trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng có nói: “Cửa yếu và đạo trước hết phải phát tâm, việc chính của tu hành trước tiên nên lập nguyện”. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập nguyện bền chắc dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên trong cõi luân hồi, dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết: Muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ đề tâm không thể trì hoãn.

Làm thế nào phát Bồ đề tâm:

Phát Bồ đề tâm như trên đã nói, có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ sau đây:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Nhưng không thể nói suông “Tôi phát Bồ đề tâm”, hay từng ngày đều đọc bốn điều thệ nguyện ấy là phát Bồ đề tâm. Thay vì nói theo thuật ngữ “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” có thể hiểu phát Bồ đề tâm là phát tâm phục vụ, khiến cho chúng sanh khai triển trí tuệ nội tâm để được giác ngộ giải thoát, gọi là phát Bồ đề tâm chứ không phải là làm những việc xa vời.

Đôi lúc chúng ta mãi nghĩ đến tương lai, đến khi nào mới “thượng cầu hạ hóa” được mà bỏ quên mất ý nghĩa thiết thực. Miệng nói rằng “hạ thủ công phu”, “giải thoát sanh tử” nhưng những công việc cần thiết cấp bách ngay trong hiện tại vẫn chưa làm được, lại hứa hẹn “lúc nào mình hoát nhiên đại ngộ hay thành Phật chẳng hạn, lúc đó sẽ cứu độ chúng sanh”, nghĩa là mới “hạ hóa” được, còn bây giờ thì việc đó không thể làm.

Ngày xưa Ngài Tu Bồ Đề đã đại diện cho chúng ta nêu lên cái nguyện vọng băn khăn nghìn đời là “Làm thế nào để con được thành Phật”. Đức Thế Tôn đã trả lời “Con nên độ hết thảy chúng sanh vào vô dư Niết bàn mà không thấy có một chúng sanh nào được độ”. Hay hỏi “Làm thế nào để được giải thoát”, đức Phật bảo: “Hãy lo độ sanh đi, tức khắc tâm con được an, tâm an tức là giải thoát”.

Vì vậy ngay trong đời này chúng ta phải biết phát Bồ đề tâm. Không có một đời tái sinh nào tốt hơn để phát Bồ đề tâm hơn trong đời hiện tại này. Chúng ta phải xem mình có thể thực phát Bồ đề tâm không. Nếu không được như vậy thì phải xem ta có vài kinh nghiệm gượng ép về Bồ đề tâm, hoặc có một chút tri kiến ở mức độ thấp về Bồ đề tâm và dựa vào đó để phát tâm của mình. Điều cốt yếu là chúng ta cần phải gieo vào tâm thức càng nhiều bản năng về Bồ đề tâm càng tốt.

Cho nên vấn đề đặt ra một cách thiết thực là “Làm thế nào phát Bồ đề tâm?”. Muốn cho lòng Bồ đề phát sanh và tăng trưởng, chúng ta nên suy tư, quán sát để phát tâm theo sáu điểm sau đây:

1. Điểm thứ nhất là giác ngộ tâm: chúng sanh thường bị chấp chặt, bó buộc trong bản ngã và ngã sở của mình, mà không biết rẳng tứ đại không thật, sắc thân này không trường tồn, giải hợp. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Cổ đức đã dạy “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Khi đã giác ngộ được rằng tâm như huyễn, không chấp trước.

Cái ta không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật chứng đắc. Nhơn đã không thì pháp cũng không, vì sự cảnh luôn thay đổi trong từng sát na, không có tự thể; cũng nên nhận rõ rằng chẳng phải các pháp khi hoại diệt mà thành không, mà vì nó hư huyễn nên đương thể tức không, nhơn cũng vậy. Người xưa đã nói “hà tu đãi hoa lạc nhiên hậu thỉ tri không” (Cần chi đợi hoa rụng mới biết sắc là không).

Hành giả khi đã giác ngộ tâm và pháp đều không, giữ lòng thanh tịnh, tâm giác ngộ như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.

2. Thứ hai, bình đẳng tâm: Đức Phật dạy “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”, nghĩa là ai cũng có Phật tánh nên đức Phật dùng tâm từ bi, bình đẳng tế độ. Ngược lại chúng sanh vì tâm phân biệt nên khởi lòng ghét khinh. Cũng đồng một cái nhìn nhưng khác nhau ở chỗ là mê và ngộ. Là Phật tử, đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng tôn trọng, vì đó là một vị Phật tương lai, dứt trừ nghiệp chướng, phân biệt khinh mạn, nảy sanh được các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo như thế gọi là phát Bồ đề tâm.

3. Thứ ba, từ bi tâm: Ta cùng chư Phật đồng một thể tánh, vậy mà vì mê mờ, phiền não, đến hôm nay vẫn còn chìm đắm trong luân hồi, chịu vô biên khổ. Hiểu được như thế ta phải dứt tâm phân biệt ghét thương, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu người để cùng nhau được an vui thoát khổ. Muốn cho tâm từ bi được rộng thêm ra, nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông đến nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sẽ sanh lòng xót thương, muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ đề tâm từ đó phát sanh.

Ví như thấy người ta đau yếu, mà vì vật giá cao quý, không tìm thuốc thang, thành ra kéo dài bệnh khổ qua năm tháng, thậm chí có kẻ phải quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp, vợ đau, con bệnh, rách rưới, lang thang sống không ổn, chết cũng không xong.

Lại có những kẻ mang trong mình tâm sự buồn khổ, không có bạn lành khuyên lơn giải thích. Hoặc có những kẻ mê tối tạo nghiệp mà không biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp, không có đường thoát ly. Thấy những cảnh như vậy, động lòng thương xót muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.

Nói rộng ra như trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền khai thị: “Bồ tát quán chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi lòng đại bi, quán chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi lòng đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi lòng đại bi, quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi lòng đại bi”. Đã phát đại bi tức phát Bồ đề tâm thề nguyện cứu độ, thế thì lòng đại bi và Bồ đề tâm thông nhau. Lưu ý rằng đại bi ở đây khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức nên bị sợi dây tình ái buộc ràng. Đại từ bi là thương xót cứu độ mà lìa xa tướng không phân biệt chấp trước, tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng, dùng lòng đại bi như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.

4. Thứ tư là hoan hỷ tâm: đã có xót thương tất phải thể hiện qua lòng hoan hỷ. Hoan hỷ này nói đủ có hai: tùy hỷ và hỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy từ trên chư Phật, thánh nhơn, dưới đến các loài chúng sanh làm việc phước thiện, có công đức, dù nhỏ mọn cũng vui mừng theo, hoặc thấy ai được phước lợi, thành công, an ổn, hạnh phúc, mình cũng vui dùm. Hỷ xả là dù có chúng sanh làm nhiều tội ác, vong ân khinh hủy, hiểm độc, đem lại sự bất như ý cho mình hoặc người cũng an nhẫn vui vẻ bỏ qua. Khi có lòng hoan hỷ thì trừ được chướng tật đố nhỏ nhen, diệt trừ được chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ ấy không ngoài sự giác ngộ mà thể hiện, đó chính là tâm Bồ đề. Dùng lòng hoan hỷ ấy mà hành đạo thời gọi là phát Bồ đề tâm.

5. Thứ năm là sám nguyện tâm: trong kiếp luân hồi, mọi loài đã từng đắp đổi làm thân bằng quyến thuộc của nhau. Vì vô minh chấp ngã nên cũng đã từng làm tổn hại nhau, tạo vô biên nghiệp. Hiểu được như vậy, ta phải đem thân nghiệp lễ kính Tam Bảo, khẩu nghiệp bày tỏ tội lỗi cầu được tiêu trừ. Ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái tạo để sám hối ba nghiệp chướng sâu dày.

Lại phát nguyện hoằng dương chánh pháp để cứu độ muôn loài, đền tứ trọng ân: ân Tam Bảo, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thiện tri thức và ân chúng sanh để mong chuộc lại những lỗi lầm xưa trong muôn một. Có tâm sám nguyện như vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức thêm lớn. Dùng tâm sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.

6. Thứ sáu là bất thối tâm: đời mạt pháp “Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng”, dù đã phát nguyện, đã sám hối nhang hoặc nghiệp và ma chướng không dễ gì trừ dứt, sự lập công bồi đức cứu độ muôn loài không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ đề đi đến cõi viên giác lại xa vời, đầy rẫy cam go chướng ngại, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một đời. Thế thì việc giữ tâm nguyện thật không phải dễ! Cho nên hành giả muốn đạo tâm không thối chuyển phải lập nguyện kiên cố, thề rằng: “Thân này dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh chết cho đến thiêu đốt tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước đường tu hành”. Dùng tâm bất thối chuyển như thế mà hành đạo mói gọi là phát Bồ đề tâm.

Đó là những sự kiện phải có của người phát Bồ đề tâm. Nếu không y theo đây mà lập chí tu hành thì dù có phát tâm cũng chỉ mới phát suông không thể nào đi đến Phật quả được.




LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM
Kỳ 3: Bồ đề tâm – một đóa hoa rạng ngời cuộc sống
Nguyên Tuệ

Bồ đề tâm – một đóa hoa rạng ngời cuộc sống. Nếu như chỉ đứng trên vai trò ngôn gữ để nói, cho dù người có đầy đủ các tri kiến về Bồ đề tâm, cũng chưa đủ để quyết định đó là người đã phát Bồ đề tâm. Điều quan trọng là dựa trên cơ sở những hiểu biết về Bồ đề tâm, hành giả phải bắt tay vào thực hành để thực sự có được chất liệu Bồ đề tâm trong hương vị cuộc sống.

Hằng ngày, có rất nhiều công việc để chúng ta làm với ý nghĩa là phát Bồ đề tâm. Việc phát tâm ấy không phải là xa vời mà nó rất gần gũi trong từng việc làm, quét sân, nhổ cỏ, gánh nước, nhặt rau... Nếu ta làm với sự phát tâm, trong niệm tỉnh giác, trong niềm hoan hỷ. Nếu được như vậy mới lợi lạc trên con đường hướng thượng của mình.

Lại, kinh văn có nói “Quên mất Bồ đề tâm dẫu tu thiện pháp cũng là ma nghiệp”. Ma nghiệp ở đây là những hành động, tạo tác, suy tư đối với tâm lý thấp hèn, ích kỷ, trở ngại cho sự nghiệp khai triển trí huệ nội tâm.

Mọi việc chúng ta làm nếu trên cầu Phật đạo mà không vì chúng sanh thì trở thành ích kỷ không thể giải thoát hoàn toàn được. Trái lại, nếu chỉ vì chút lợi mà bỏ quên Phật đạo thì lại dắt nhau quanh quẩn trong vòng sanh tử luân hồi. Như vậy phát Bồ đề tâm muốn hướng dẫn tha nhơn trước hết hành giả phải tự hoàn thành nhân cách của con người, nhân cách ấy nhà Phật gọi là Bồ tát hạnh. Mọi việc làm với tâm niệm phục vụ chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh đều gọi là thành quả của Bồ tát hạnh. Nếu độ sanh, hành thiện mà quên mất tâm Bồ đề tức chính là ma nghiệp.

Thỉnh thoảng chúng ta cũng thường giúp đỡ mọi người với khả năng có thể của mình, nhưng ít ai làm được việc đó với tâm Bồ đề. Khi giúp người, bố thí cho kẻ khác của cải gì chúng ta nghĩ như vậy là mình đã phát Bồ đề tâm. Nhưng không, những việc làm đó phần nhiều vì danh, vì lợi hoặc cao hơn là vì lòng trắc ẩn! Có mấy ai bố thí với tình thương tuyệt đối: “Khi cho mà không suy nghĩ, không đòi hỏi điều gì trả lại, không hối tiếc hay không phân biệt một cái gì thì đó mới gọi là tuyệt đối”. Thường ít thấy ai làm được như vậy. Chỉ thấy bất cứ cái gì cho ra cũng hy vọng được trả lại, đôi lúc muốn đạt lại nhiều hơn là khác. Sở dĩ như vậy là không có năng lực Bồ đề tâm điều động.

Ngày xưa, vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ tăng ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng? Tổ đáp: đều không có công đức. Bởi những việc làm ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thực. Nhơn hữu lậu thì gây phước hữu lậu. Và như vậy thì không đạt đến quả vị giải thoát. Mọi việc làm, hành động không đưa đến giải thoát đều gọi chung là “ma nghiệp””.

Đơn cử một việc như trên chúng ta thấy rằng làm bất cứ việc gì dù đó là phước đức, nhưng không có tâm Bồ đề chủ đạo thì rốt cuộc vẫn không mang lại lợi ích – cái lợi ích cần thiết cho sự giải thoát. Sự thật, cùng một hành động, cùng một cái nhìn, nhưng sở dĩ khác nhau là ở chỗ dụng tâm của con người. Trong cuộc sống, trong hành động, trong suy nghĩ thì chữ tà và chữ chánh chỉ cách nhau bằng một mảy tơ sợi tóc, cán cân đo lường chánh và tà đó không khác gì hơn là sự tỉnh giác nơi tâm hành giả. Vì vậy, cũng có lắm người đã phát tâm song lại để quên mất.

Chúng ta phải có một chút tự hào rằng đã đứng vào trong hàng ngũ xuất gia là ít nhiều chúng ta đã phát Bồ đề tâm, nhưng tâm ấy đang ở buổi ban sơ, rất mong manh nên rất dễ thối thất. Vì vậy phải nuôi dưỡng tâm Bồ đề, hay nói khác là luôn tỉnh giác duy trì bóng dáng của đức Phật mọi nơi sinh động của nội tâm, lúc đó chắc chắn chúng ta sẽ không hành động bất luận việc gì mà Phật tâm không cho phép.

Ai chưa phát tâm nay phát, ai đã phát rồi nay tăng trưởng, ai đã tăng trưởng nay tiếp tục. Đừng mặc cảm khinh lờn biếng nhác, đừng chần chừ khi già mà luống uổng một đời. Như mài dao và trồng cây; dao đùi mài lâu sẽ bén, cây trồng lâu sẽ bám rễ sâu, chớ thấy đùi, thấy cạn mà không mài, không trồng thì sẽ trở thành vô dụng. Nguyện rằng quyến thuộc Bồ đề từ nay kết hợp, liên minh sen vàng từ đây tương giao. Trong tay ai cũng có sẵn bản đồ, vấn đề còn lại hãy mạnh dạn, tinh tấn cất bước đi lên:

“Mục đích có sẵn rồi
Nào phải vọng xa xôi
Dặm trình thong dong bước
Hoa trắng nở ven đồi”

Nguyên Tuệ
(Trung Tâm VHPG Liễu Quán Huế)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2020(Xem: 6850)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5697)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5202)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5305)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5876)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 5058)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4476)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7666)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
20/12/2020(Xem: 6324)
Trong một thời khắc lịch sử, cả nước đã chứng kiến sự hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai khi ba thế hệ của triều đại Wangchuck, Vương quốc Phật giáo Buhtan đến viếng thăm khu đất của Pungthang Dewachhenpoi Phodrang vào ngày hôm 16 vừa qua. Lễ Kỷ niệm 113 năm Quốc khánh Vương quốc Bhutan, được tổ chức bên trong Punakha Dzong “Cung điện Hạnh Phúc”, từng là nơi ngự của Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel đáng tôn kính hơn 400 năm trước, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
20/12/2020(Xem: 5703)
Matxcơva, ngày 15 tháng 12: Hội nghị Bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Đối thoại các Tôn giáo trong Thế giới hiện đại, Dialogue of Religions in Modern World“ do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Viện Nghiên cứu Học thuật về Cơ đốc giáo phương Đông (INaSEC) đồng tổ chức tại Khoa Tôn giáo và Thần học (FRT) thuộc Đại học Vrije Amsterdam và Đại học Chính thống Cơ đốc giáo, Nga nhân danh Thánh John Divine.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]