Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguyên tắc đạo sư

26/05/201200:51(Xem: 7701)
Nguyên tắc đạo sư
NGUYÊN TẮC ĐẠO SƯ
Sogyal Rinpoche
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên


nguyentacdaosu-SogyalRinpocheKhi chúng ta nói về một vị Lama, một đạo sư hay nguyên tắc của Guru, điều quan trọng là nhớ rằng Guru không phải chỉ là một người. Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bi và trí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.

Có lẽ, hình mẫu xúc động và chính xác nhất của bản tánh chân thật của Đạo sư mà tôi từ nghe nói đến từ thầy tôi, ngài Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài nói rằng mặc dù bản tánh của chúng ta là Phật, nhưng nó bị che chướng từ thời vô thủy bởi đám mây ngu dốt và vô minh. Tuy nhiên, bản tánh chân thật này, Phật tánh của chúng ta, không bao giờ đầu hàng sự chuyên chế của ngu dốt; đâu đó nó vẫn đang chống lại sự kiểm soát đó.

Như thế, Phật tánh của chúng ta có một khía cạnh tích cực, chính là “vị thầy bên trong” của ta. Từ thời điểm ta trở nên vô minh, vị thầy này đã làm việc không mệt mỏi vì chúng ta, cố gắng không mệt mỏi để mang chúng ta lại với sự chói ngời và khoáng đạt của bản tánh chân thật. Không một lúc nào mà vị thầy bên trong bỏ rơi hay từ bỏ chúng ta, ngài Jamyang Khyentse nói tiếp. Trong sự từ bi tuyệt đối, người ta với lòng từ bi tuyệt đối của tất thảy chư Phật và các bậc giác ngộ, vị thầy này làm việc không ngừng vị sự phát triển của chúng ta – không chỉ trong đời này mà còn trong tất cả các đời trước kia – sử dụng mọi phương tiện thiện xảo và mọi kiểu hoàn cảnh để giảng dạy và tỉnh thức chúng ta, và chỉ dẫn chúng ta quay trở về với sự thật. Hàng ngày, chúng ta có thể nhận ra rằng cuộc đời đang dạy chúng ta như thế nào. Nó có thể là một bài học mà ta chẳng hề muốn, nhưng ta không thể chạy trốn khỏi sự thật đó, bởi đời chỉ tiếp tục và tiếp tục dạy chúng ta. Đây là tính phổ quát của Bậc Đạo sư.

Khi chúng ta cầu nguyện và chí thành đi tìm sự thật trong một thời gian dài, đạo sư của tôi nói tiếp, và khi nghiệp của chúng ta được tịnh hóa đủ, vị thầy bên trong thực sự bắt đầu thị hiện rõ ràng hơn và mang hình tướng vị thầy bên ngoài mà chúng ta thực sự đối mặt. Sự gặp mặt này là điều quan trọng nhất của bất cứ đời nào. Vị thầy bên ngoài này là ai? Không gì khác hơn chính là hiện thân và khẩu và đại diện [tức thân, khẩu và ý] của vị thầy bên trong. Ngài dạy cho chúng ta cách thức nhận được thông điệp của vị thầy bên trong của mình, và cách thức nhận ra vị thầy tối thượng bên trong, khôi phục niềm tin vào bản thân và như thế giải phóng chúng ta khỏi khổ đau đến từ việc không biết bản tánh chân thực của mình.

Vị thầy bên ngoài là người đưa tin, vị thầy bên trong là sự thật. Nếu ai đó muốn gọi điện thoại cho bạn, ví dụ, họ cần quay số của bạn. Giống như vậy, chư Phật gọi chúng ta thông qua Phật tánh, vị thầy bên trong của chúng ta. Ngài là đường dây trực tiếp, nhưng cho đến khi bạn biết cách lắng nghe, chính vị thầy bên ngoài là người trả lời điện thoại. Chư Phật làm việc thông qua ngài, đến với bạn. Điều quan trọng là không đánh mất nhận thức về sự kết nối giữa vị thầy bên trong và bên ngoài này. Vị thầy bên ngoài đang giảng cho bạn cách thức tìm thấy chính bản thân, cách tìm ra vị Phật bên trong. Ngài giới thiệu bạn với chính mình, và cho đến khi bạn tìm thấy vị Phật bên trong, ngài sẽ là người thay thế đó.

Trong giáo lý Dzogchen, Đức Liên Hoa Sinh đại diện cho nguyên tắc vũ trụ này. Ngài được coi là hiện thân của chư Phật trong quá khứ, đại diện của chư Phật hiện tại, và suối nguồn mà từ đó chư Phật tương lai đến. Ngài là vị Đạo sư vĩnh cửu, ở đó tất cả chư đạo sư đều hiện hữu. Rất nhiều các đạo sư vĩ đại của truyền thống Tây Tạng nhận được cảm hứng từ ngài, và là hóa thân của ngài, như chùm ánh sáng đến từ mặt trời. Bởi thế nếu bạn có kết nối với bất kỳ ai trong đó [tức là trong số rất nhiều các đạo sư kể trên: ND], các ngài sẽ dẫn bạn đến với ngài. Sự kết nối dưới hình thức con người của ngài với bạn chính là vị thầy của bạn. Chính thông qua bậc đạo sư, bạn có thể nhận ra ngài.

Dù bạn coi Đức Liên Hoa Sinh là gì, hay bạn coi đạo sư của mình là gì, đó chính là Dzogchen. Trạng thái tuyệt đối của Dzogpa Chenpo là tâm trí tuệ của vị thầy bạn. Bởi thế bạn không nên coi ngài là một người bình phàm. Ngài đại diện cho sự thật hay trí tuệ làm bạn xúc động và truyền cảm hứng cho bạn. Vì thế với bạn, ngài đại diện cho tâm trí tuệ nhiều đến mức chỉ nghĩ về ngài đã kết tinh toàn bộ giáo lý và thực hành thành bản chất cốt tủy. Đạo sư không tách biệt với giáo lý; trên thực tế, ngài là năng lượng, sự thật và từ bi của Pháp. Ngài là hiện thân của Dzogpachenpo [Đại toàn thiện], bởi thế bất cứ khi nào bạn nghĩ về bậc đạo sư của bạn hay Đức Liên Hoa Sinh, điều đó sẽ kêu gọi sự gia trì của các ngài đến với bạn. Đây chính là suối nguồn cơ bản của sự truyền cảm hứng của các thực hành Dzogchen.

Như Đức Kalu Rinpoche nói trong Pháp hội cộng đồng cuối cùng của ngài: “Người chúng ta gọi là Phật, là Lama, không phải là thứ vật chất như sắt, pha lê, vàng hay bạc. Các con không bao giờ được nghĩ về các ngài với thái độ thực dụng như thế. Bản chất của Lama hay Phật là tánh không, bản tánh của các ngài là sự sáng tỏ; sự hiển bày của các ngài là trò chơi của giác tánh không ngăn cản. Ngoại trừ điều đó, các ngài không có hình tướng, dạng thức hay màu sắc vật chất, thực sự nào – như là sự chói ngời trống rỗng của hư không. Khi chúng ta hiểu các ngài như thế, chúng ta có thể phát triển được niềm tin, hòa tâm chúng ta với các ngài, và để tâm an trú một cách yên bình. Thái độ và thực hành vô cùng quan trọng.”

Chúng ta cần nhân hóa sự thật để có thể tiếp cận với nó. Không như thế, làm sao ta có thể hiểu được điều tuyệt đối? Với chúng ta, Đạo sư là hình tướng con người của sự thật [hay chân lý]. Như ngài Dilgo Khyentse Rinpoche từng nói, “Không có vị Phật nào trở nên giác ngộ mà không nương tựa vào một bậc thầy tâm linh.” Các bạn cần nhận ra sự tuyệt đối bên trong sự ngự trị của tâm bình phàm. Và con đường vượt khỏi tâm là thông qua trái tim và thông qua lòng sùng mộ. Như Đức Phật từng nói với ngài Shariputra [Xá Lợi Phất]: “Chính thông qua lòng sùng mộ, và chỉ lòng sùng mộ thôi, mà người ta nhận ra sự tuyệt đối.”

Đức Nyoshul Khen Rinpoche chỉ ra rằng, “Theo [giáo lý] Dzogchen, và sự tiếp cận đặc biệt của một vị Đạo sư Dzogchen vĩ đại, ngài Shri Singha, có một cách để nhận ra bản tánh của tâm chỉ thông qua lòng sùng mộ. Có nhiều trường hợp hành giả chỉ thông qua lòng sùng mộ chí thành mà chứng ngộ, dù vị thầy của họ đã mất hay không ở gần họ về mặt vật lý. Bởi các lời cầu nguyện và lòng sùng mộ, bản tánh của tâm được chỉ ra. Ví dụ nổi tiếng nhất chính là về Đức Longchenpa và Đức Jigme Lingpa.

Dzogchen không thể được nhận ra chỉ với kiến thức hay ý nghĩ của tâm bình phàm, mà phải thông qua sự thanh tịnh của con tim. Bởi Dzogchen là vượt ra ngoài tâm, nó là trí tuệ rigpa, thứ chỉ có thể được trao truyền thông qua sự thân cận giữa bậc đạo sư và đệ tử.

Khi đạo sư có thể mở trái tim sâu kín của bạn, và giúp bạn nhận ra hình ảnh sức mạnh không thể phủ nhận của bản tánh của tâm, cơn sóng của lòng biết ơn hoan hỉ dâng lên trong bạn hướng về người giúp bạn nhận thấy, và sự thật bạn nhận ra mà đạo sư vẫn đại diện bên trong, giáo lý, và tâm trí tuệ. Cảm xúc chân chính, không giả tạo đó luôn luôn bám chắc vào kinh nghiệm bên trong, không thể phủ nhận, được lặp lại – sự thấu suốt được lặp lại của sự nhận ra trjwc tiếp – và điều này là cái mà chúng ta gọi là sùng mộ, mbgutrong tiếng Tạng. Mogunghĩa là “mong nỏi và kính ngưỡng”: kính trọng với bậc đạo sư, cảm giác phát triển ngày càng sâu sắc khi bạn hiểu hơn ngài là ai, và mong mỏi thứ mà ngài có thể chỉ ra trong bạn, bởi bạn hiểu đạo sư là kết nối về tâm với sự thật tuyệt đối và hiện thân của bản tánh của tâm của bạn.

Bởi thế, điều quan trọng là biết được rằng lòng sùng mộ thực sự là gì. Nó không phải sự khâm phục vô tâm; nó không sự từ bỏ trách nhiệm với bản thân, cũng không phải sự theo đuôi không phân biệt một cá tính hay ý nghĩ kỳ quặc khác. Lòng sùng mộ thực sự là sự tiếp thu không ngừng sự thật. Lòng sùng mộ đến từ thái độ biết ơn có phần nể sợ và kính trọng, nhưng đó là thái độ tỉnh giác, có nền tảng và trí tuệ.

Càng quán chiếu về sùng mộ và địa điểm cùng như vai trò của nó trong mọi hoàn cảnh của giáo Pháp, tôi càng nhận ra rằng nó là một phương tiện thiện xảo mạnh mẽ vô cùng quan trọng giúp chúng ta tiếp thu nhiều hơn chân lý trong giáo lý của Đạo sư. Như thế, lòng sùng mộ trong một khía cạnh là cách thức thực tiễn nhất để đảm bảo sự kính trọng toàn vẹn cho giáo lý, và như thế là cánh cửa đến với giáo Pháp, điều mà bậc đạo sư hiện diện và trao truyền. Bạn càng sùng mộ, bạn càng dễ dàng tiếp cận với Pháp; như thế cơ hội để Pháp hòa vào tâm bạn càng nhiều, và như thế mang đến một sự chuyển hóa tâm linh hoàn toàn.

Lòng sùng mộ trở thành cách thức đơn giản nhất, thanh tịnh và nhanh nhất để nhận ra bản tánh của tâm chúng ta và mọi vật. Khi chúng ta tiến bộ trong đó, tiến trình tự phát lộ sẽ độc lập một cách diệu kỳ: Chúng ta, từ phương diện của mình, liên tục cố gắng phát khởi sùng mộ, lòng sùng mộ chúng ta khởi lên tự tạo ra các hình ảnh về bản tánh của tâm và những hình ảnh này chỉ làm sâu sắc thêm lòng sùng mộ với bậc đạo sư, người đang truyền cảm hứng cho chúng ta. Bởi thế lúc cuối cùng, lòng sùng mộ sẽ sinh ra trí tuệ: sùng mộ và kinh nghiệm sinh động về bản tánh của tâm sẽ trở nên không thể tách rời và truyền cảm hứng cho nhau.

Như Đức Dilgo Khyentse Rinpoche từng nói, “ Lòng sùng mộ là bản chất của con đường, nếu chúng ta có trong tâm không gì khác ngoài bậc Đạo sư và cảm thấy không gì khác ngoài lòng sùng mộ chân thành, bất cứ điều gì xảy ra cũng được nhìn nhận là sự gia trì của ngài. Nếu chúng ta đơn giản thực hành với lòng sùng mộ hiện tại này, đó sẽ chính là một lời cầu nguyện.

Khi mọi ý nghĩ thấm nhuần lòng sùng mộ với đạo sư, sẽ có một niềm tin tưởng tự nhiên rằng điều đó sẽ chăm sóc mọi điều có thể xảy ra. Mọi hình tướng đều sẽ là đạo sư, mọi âm thanh là lời cầu nguyện, và mọi ý nghĩ hỗn độn và vi tế khởi lên đều là lòng sùng mộ. Mọi thứ được giải phóng một cách tự nhiên trong bản tánh tuyệt đối, như là nút thắt được cởi ra trên bầu trời.

Dù bất cứ điều gì xảy ra, niềm tin tưởng tự nhiên này sẽ mang lại cho chúng ta một khả năng bẩm sinh triệu thỉnh sự ấm áp và lực gia trì của chân lý khi cần thiết. Nó đến từ việc nhận ra tri kiens, và từ điều này lòng từ bi rộng lớn cũng sinh khởi. Như Đức Nyoshul Khen từng giải thích: “Khi con nhận ra ý nghĩ chân thực của tánh không hay Dzogpachenpo, từ bi không nỗ lực sẽ sinh khởi với mọi chúng sinh chưa chứng ngộ; nếu nước mắt có thể diễn tả từ bi, con sẽ khóc đến khi kết thúc.” Ba thứ, tri kiến, sùng mộ và từ bi không thể tách rời, cùng một vị - vị của Pháp.

Trích trong cuốn “Dzogchen và Padmasambhava”, Sogyal Rinpoche.
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2020(Xem: 5113)
Ngày 10 tháng 12 vừa qua, theo Bình Nhưỡng đưa tin (KCNA) – Trong số những Di sản Văn hóa quý giá đất nước Triều Tiên có “Cao ly Bát Vạn Đại Tạng kinh” (고려 팔만 대장경, 高麗八萬大藏經, 80.000 Wooden Blocks of Complete Collection of Buddhist Scriptures” được khắc mộc bản vào nửa đầu thế kỷ 11, triều đại Vương quốc Koryo (918-1392).
19/12/2020(Xem: 5021)
Lối xưa người đến dạo chơi, Hoá thành chú Tiểu, học lời Thầy Trao. Thênh thang mây trắng hôm nào, Ra vào chốn tịnh, trăng sao gối tình.
13/12/2020(Xem: 6051)
Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”. Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.
11/12/2020(Xem: 6052)
Phật giáo Hàn Quốc phải chịu đựng nỗi đau chưa từng có của “Pháp nạn 27.10” (10·27 법난, 十二七法難), nhưng chư tôn tịnh đức tăng già đã biến đau thương thành sức mạnh. Chẳng bao lâu, nỗi đau ấy đã thăng hoa thành động lực để sớm hồi sinh trong phúc lợi xã hội, và những thành tựu đáng kể bắt đầu đạt được trong các lĩnh vực xã hội dân sự, thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân quyền, giao lưu liên Triều (Nam Bắc Hàn) và phúc lợi xã hội.
11/12/2020(Xem: 5558)
Mối quan hệ giữa Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc được minh họa rõ nhất qua lời của tác giả, nhà báo, nhà sử học và nhà tây tạng học, Cư sĩ Claude Arpi, người Pháp, người đã viết một loạt các tác phẩm quan trọng về Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc, bao gồm “Số phận Tây Tạng: Khi Những Côn trùng lớn ăn thịt Côn trùng bé; The Fate of Tibet: When the Big Insects Eats Small Insects”.
10/12/2020(Xem: 6270)
Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966, trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.
10/12/2020(Xem: 5393)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 14948)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
07/12/2020(Xem: 5548)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5505)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]