Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập Tục Sóc Vọng và ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ

27/09/201014:45(Xem: 7667)
Tập Tục Sóc Vọng và ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ
hoa_sen
Văn hóa xã hội và tín ngưỡng tôn giáo là một hiện tượng khảo sát của văn minh nhân loại. Như chúng ta đã biết, văn hóa Việt Nam nói chung, hay các tập tục - tín ngưỡng - lễ hội nói riêng, trải qua quá trình phát triển lịch sử của dân tộc đã chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa, tôn giáo vốn đã du nhập vào nước ta hòa quyện để trở thành truyền thống dân gian của dân tộc.

Dĩ nhiên, những truyền thống dân gian nguyên thủy của các dân tộc người bản xứ được coi là thủy tổ của dân tộc Việt dần dần được pha trộn với các nền văn hóa khác mà phát triển, thì chủ thể không còn là bản sắc ban đầu của nó. Đó là một hoàn cảnh mang tính đặc thù của người Việt, vốn dĩ thuyết minh cho phần nghiên cứu chuyên đề này là phong tục tập quán mang ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ.

Một điển hình cho hình thái này là Tập tục Sóc, Vọng, một tập tục gắn liền với đời sống người Á Đông, và đặc biệt là với dân tộc Việt ở miệt đồng bằng Nam bộ, nơi mà mọi sinh hoạt, giao thông, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng đều ít nhiều phụ thuộc vào các con nước thủy triều trên sông rạch.

I. TẬP TỤC SÓC VỌNG.

a) Nguồn gốc:

- Sóc:là tên gọi ngày bắt đầu của một tháng (1), là trước, mới (2), là bắt đầu, khởi đầu (3).

- Vọng:là ngày rằm (tức ngày 15) tháng âm lịch. Vọng có nghĩa là trông xa (1), là ngày mặt trăng mặt trời đối xứng nhau ở hai cực (2). Người xưa cho rằng vì thế mặt trời mặt trăng nhìn rõ nhau, thấu suốt ánh sáng nhau, soi chiếu vào mọi tâm hồn con người trở nên sáng suốt, trong sạch, đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục cái tâm vốn sáng suốt, trong sạch từ trong bản thể. Chữ Vọng còn có nghĩa trông mong (3), ước mong, người xưa lấy ý nghĩa này kết hợp với ý nghĩa trước để làm ngày cầu nguyện. Người ta tin rằng ở ngày này nhờ sự thông suốt của mặt trời, mặt trăng mà thần thánh, ông bà, tổ tiên sẽ thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi khác và sự thông cảm tha thứ sẽ được đáp lại.

b) Ý nghĩa:

Trải qua quá trình lịch sử và ảnh hưởng của các trào lưu tôn giáo, ngày Sóc, Vọng được nhận thức ở mỗi nơi có khác ít nhiều tùy theo con người, thổ nhưỡng và tín ngưỡng chủ đạo. Nhưng việc cúng lễ ở hai ngày này giống nhau và coi như là một lễ chung cho cả hai ngày không khác. Người xưa coi ngày Sóc, Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên, cúng bái ông bà, là ngày nghỉ ngơi trong lao động sản xuất và là ngày chay tịnh để sửa mình.

Theo truyền thống của Nho, Lão giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Thiên địa mở thông", là sự thông thương của tất cả mọi chướng ngại giữa ba cõi (Thiên, Địa, Nhân). Trời sẽ chứng giám cho hành vi của con người, ông bà tổ tiên sẽ về cảm nhận lòng thành của con cháu, và quỉ thần ám chướng sẽ lui khỏi những ngày này không nhiễu hại ai.

Ngày Sóc, Vọng còn có ý nghĩa "Cát tường" tức là ngày lành tốt nhất trong tháng. Và ý này được chấp nhận chung cho cả quan niệm phương Đông ở Nho - Phật - Lão, như ngày Chúa nhật của phương Tây với Thiên Chúa giáo.

Đối với Phật giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Trưởng tịnh" tức là ngày trong sạch nhất. Ngày này, những tu sĩ ở chùa thường làm lễ Bố-tát tức là kiểm điểm hành vi của mình và tụng giới luật, còn lễ chính thức cho nhân dân và người theo đạo Phật đó là lễ "Sám hối" nên còn được gọi là ngày Sám hối. Ngày này mọi người tụ tập về chùa vào lúc màn đêm vừa buông xuống để cùng các vị Tăng lễ Phật, sám hối cầu nguyện bỏ dữ làm lành sửa đổi thân tâm.

c) Sự du nhập:

Ngày Sóc, Vọng có điểm xuất phát từ khi hình thành nên âm lịch ở nước Trung Hoa Cổ đại. Trải qua bao thời đại, nước Trung Hoa gồm thâu thiên hạ trở thành một đất nước cường thịnh, phát triển mọi mặt về văn hóa, quân đội và Nhà nước phong kiến. Vua quan phong kiến nước Trung Hoa vẫn tiếp tục mộng bá quền, coi mọi dân tộc đất nước lân bang khác là chư hầu, dùng bạo lực xâm lược để trấn áp và bành trướng nền văn hóa của họ để cai trị, đồng hóa.

Chính vì thế văn hóa Trung Quốc đã truyền vào Việt Nam và nhân dân ta đã hấp thụ âm lịch cùng chấp nhận nó. Ban đầu ảnh hưởng Lão giáo, Khổng giáo gắn rất chặt vào các ngày lễ theo văn hóa Trung Quốc, nhưng về sau nhân dân chỉ chấp nhận sử dụng âm lịch và biến ngày Sóc, Vọng thành ngày cúng ông bà của dân tộc mình, rồi tiếp tục nhận ảnh hưởng Phật giáo vào tập tục đó để đầy dần ảnh hưởng Nho - Lão giáo ra, hình thành nên nét riêng của dân tộc trong ngày Sóc, Vọng.

Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai mà có những hình thái sinh hoạt đặc thù mà người viết đang nghiên cứu cái đặc thù ấy nơi bài này.

II. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO CHI PHỐI TẬP TỤC NHƯ THẾ NÀO?

a) Ngày Trưởng tịnh:

Như đã dẫn, ngày Sóc, Vọng còn được gọi là ngày Trưởng tịnh, sám hối và ăn chay, ba ý nghĩa ấy xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo.

Đúng ra, ngày Trưởng tịnh đã được Phật giáo hóa từ khi Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa ở phương Bắc và truyền vào các nước theo Phật giáo Tiểu thừa ở phương Nam. Và ở Nam bộ, là điểm hội tụ của cả hai hệ phái Phật giáo ấy trong tập tục Sóc, Vọng, vì Phật giáo Tiểu thừa sử dụng lịch Ấn Độ không sử dụng âm lịch Trung hoa, nhưng ngày làm lễ Bố-tát của họ cũng được quy định bằng ngày trăng sáng và ngày không trăng. Vì vậy, ngày Sóc, Vọng ở Nam bộ, nơi vùng đất cũ của người Khơme còn sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo Tiểu thừa, cộng với tín ngưỡng Phật giáo Đại thừa được mang đến từ người Việt lưu cư, đã hòa quyện nhau trở thành ngày của Phật giáo mang đặc điểm khác biệt với Trung bộ và Bắc bộ về Sóc, Vọng.

c) Ngày Sám hối:

- Đêm mồng một:

Ở Nam bộ không có thói quen gọi là ngày Sóc, Vọng, mà người ta thường gọi một cách quen thuộc là ngày rằm (tức ngày Vọng - 15) và ngày mồng một (tức ngày Sóc - 30,1). Không khí của ngày rằm, mồng một ở đây được coi là những ngày quan trọng hơn mọi ngày trong tháng.

Nhân một chuyến đi khảo sát tại Bình Đại, Bến Tre cho bài khảo cứu này vào một tối 29 (vì là tháng thiếu), mới hơn 6 giờ chiều, trời đã tối không thấy rõ mặt người, đêm cuối tháng quả là một đêm trừ tịch, lại ở vùng quê chưa hề có điện, người viết ngồi từ một quán ở đầu xóm nằm trên con đường cái của làng, đã nhìn thấy một quang cảnh rộn rịp khi tiếng chuông chùa bắt đầu ngân vang trong đêm vắng. Từng nhà, từng nhà người ta đi ra với tay cầm những con cúi (Một loại bó bằng lá dừa khô, đốt lên để cầm đi đường) đưa tới đưa lui để có ánh sáng soi đường, đồng một hướng đổ về ngôi chùa có tiếng chuông ngân.

Thật là một cảnh tượng sống động trong đêm với hằng loạt đốm lửa con cúi đổ về một hướng như lễ hội rước đèn. Nào là đàn ông, đàn bà, các cụ già và một ít các người trẻ, đa số là nữ như tục ngữ có câu: "Đình là của các ông, chùa là của các bà". Họ ăn mặc khá tề chỉnh so với lúc sinh hoạt ban ngày, người nào tay cũng có bó bông, hoặc nhang, trái cây, họ đi với tâm trạng thơ thới nhẹ nhàng, vui vẻ nhưng trang trọng để chuẩn bị dự lễ Sám hối nơi ngôi chùa làng mà tiếng chuông vang đang dần dần thôi thúc.

Người ta không đi chùa hết, những người ở lại nhà và các gia đình không theo Phật giáo nhưng thờ ông bà bày đồ cúng ra bàn Thiên (Loại bàn như cái khay đóng trên một cây cột trước nhà) lên nhang đèn cúng vái trời Phật giữa đêm tối như một chuỗi hoa đèn trông thật có ý nghĩa. Một bà lão ở quán cho người viết biết: "Đó là tục lệ thường xuyên của dân xứ này trong đêm rằm mồng một, ngày thường thì không như vậy, họ chỉ thắp hương nơi bàn Thiên mà thôi, không có sáng sủa như đêm nay.

- Đêm trăng rằm:

Đặc tính của đêm trăng rằm là con nước đầy. Vì thế, nét sinh hoạt trên quê hương sông nước là một nét đặc trưng của Nam bộ trong sinh hoạt nhân dân, nhất là đối với ngôi chùa ở miệt này.

Một chuyến đi khác tại Nha Mân, Đồng Tháp vào trong đêm trăng tròn, người viết được chứng kiến ánh trăng trải đầy trên mọi con sông rạch, lũ lượt ghe xuồng đổ về ngôi chùa Hội Phước, ngôi chùa lớn của địa phương nằm bên con rạch. Trước bến chùa, đã đầy chật ghe xuồng neo đậu, tiếng chào hỏi, những bó bông vườn hay trái cây, nhang đèn được đem đến dâng cúng lên chùa. Ngày hội trăng Rằm này là nơi gặp gỡ tốt nhất của họ sau nửa tháng lao động. Họ đến chùa dự lễ Sám hối xong, còn ngồi nán lại hiên chùa hàn huyên, lớp trẻ thì dạo chơi ở vườn hay các quán nhỏ, chỉ mở ra vào những ngày này. Sau một khoảng thời gian độ 9 giờ đêm, bến ghe lần lượt tan khi họ ra về. Lúc này trăng đã chếch bóng trên bầu trời, đối với người dân làng đi chùa lễ Phật đêm Rằm, đây là khoảnh khắc sung sướng nhất, không vội vã, với tâm trạng an lành, ung dung chèo xuồng dưới ánh trăng đêm tỏa xuống mặt sông của con nước Rằm đầy ắp, là cả một sự tươi mát thơ mộng và nhẹ nhàng của tâm hồn họ sau khi lễ Phật, mà không dễ gì người ở thành thị có được.

Những hình ảnh và cuộc sống như thế lần lựa theo ngày tháng trôi đi lập lại trên khắp xóm làng Nam bộ, nó in vào tâm trí con người khi lớn lên, dù cho họ có ra đi phương trời nào đi nữa, vì cuộc sinh kế, vẫn không thể phai mờ trong ký ức về quê hương của mình, đậm nét ngôi chùa, đêm Rằm, lễ Phật, vui chơi... Hình tượng nghệ thuật này từng được một thi sĩ thể hiện cảm xúc:

Mỗi tối dân quê đón gió lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh,
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi,
An ủi dân hiền mọi mái tranh...

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào,
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao,
Dân làng tắm gội lên chùa lễ,
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào...

(Trích bà thơ "Nhớ chùa" của Huyền Không, đăng trên tạp chí Phật giáo Việt Nam, xuất bản năm 1956, Đà Lạt.)

c) Ngày ăn chay:

Ăn chay, hay còn gọi là ăn lạt, phát xuất từ quan niệm từ bi của Phật giáo Đại thừa, khuyên tối thiểu mỗi người theo đạo Phật phải tập ăn chay mỗi tháng là hai ngày rằm và mồng một.

Ngày chay là một bộ mặt khác của chợ búa - điểm hội tụ sinh hoạt sôi động nhất cho nhu cầu con người hàng ngày. Những loại thức ăn chay được bày bán, những quán đồ chay được mời chào và phong cách mọi người cũng khác đi khi họ ăn chay. Một điểm nữa là bông trái được bày bán la liệt, có thể nói ngày Sóc, Vọng là một ngày đầy màu sắc với bông hoa rực rỡ, người làm vườn thì chở hoa ra chợ và mỗi người đi chợ đều mang về một bó hoa trong giỏ. Nét nghiêm túc được thể hiện nơi mọi người, việc sát sanh tranh cãi được hầu như gác lại để dành cho cái thiện ở mỗi người thể hiện ra.

III. CÁC HÌNH THỨC SINH HOẠT NHÂN DÂN

a) Sự khác biệt giữa các ngày Sóc, Vọng trong năm:

Mặc dù năm tháng trôi qua như mặt nước hồ phẳng lặng đều đặn như nhau, thế nhưng ở cùng ngày Sóc, Vọng trong năm cũng có những hình thức sinh hoạt khác biệt nhất định của nó. Trong đó ảnh hưởng Phật giáo hầu như gói gọn tất cả mọi ngày lễ ấy. Có thể lập được biểu đồ để so sánh các ngày lễ lớn của Sóc, Vọng như sau theo ảnh hưởng Phật giáo:

NGÀY SÓC

- 30 - 1 tháng Giêng (Tết âm lịch), Lễ Vía Phật Di-lặc
- 30 tháng Bảy: Lễ Vía Địa Tạng Bồ-tát.

NGÀY VỌNG

- Rằm tháng Giêng: Lễ Cầu phúc, cầu an, hành hương.
- Rằm tháng Hai: Lễ Phật nhập Niết bàn.
- Rằm tháng Tư: Lễ Phật đản.
- Rằm tháng Bảy: Lễ Vu-lan, báo hiếu, xá tội vong nhân.
- Rằm tháng Mười: Lễ Cúng rằm.

Trong đó:

- 12 ngày Sóc
- 2 Đại lễ.
- 10 lễ bình thường.
- 12 ngày Vọng
- 5 Đại lễ.
- 7 Lễ bình thường.

b) Những quan niệm khác nhau về ngày Sóc, Vọng:

Cái gì đã đi vào truyền thống dân gian thì đều mang trong tự bản thân nó tính chất hòa nhập xã hội và phản ảnh xã hội của địa phương chấp nhận nó. Bên cạnh đó, là quan niệm của các tầng lớp nhân dân trong mối quan hệ tập tục này về hình thức sinh hoạt và tâm lý. Đi sâu vào khảo sát, ta thấy các quan niệm của họ về ngày Sóc, Vọng như sau:

1. Đối với người tín ngưỡng dân gian:

Tín ngưỡng dân gian ở đây thể hiện ở đình và miếu. Một bộ phận nhân dân trong ngày Sóc, Vọng sẽ đến đình hay miếu của làng mình để đốt nhang, chưng dọn quả phẩm cúng Sóc, Vọng. Thực ra ngày Sóc, Vọng chỉ là ngày lễ bình thường mở cửa cho mọi người đến viếng và lễ như thường lệ mà thôi, chứ không phải là có lễ gì đặc thù trong những ngày này. Bởi đó là ngày nghỉ ngơi của nhân dân với quan niệm hướng về đạo lý truyền thống.

+ Đình là biểu tượng của làng, quan niệm về ngày Sóc, Vọng mang ảnh hưởng Nho giáo, mặc dù các Thần làng được thờ là các vị công thần thời phong kiến Việt Nam có công ở làng hoặc là anh hùng dân tộc. Sinh hoạt chủ yếu là tế lễ định kỳ với Lễ Sinh dâng cúng, và họp mặt hội đình để bàn việc làng nước, trùng tu, tương tế v.v... Đối tượng chính của đình là các bô lão chức sắc của làng và nam giới, họ đến đình để được phân công các công việc và thực hiện như một bổn phận đối với nghĩa vụ công cộng của địa phương mình.

+ Miếu, hay còn gọi là miễu, là nơi tín ngưỡng dân gian thờ Bà, gồm các vị thánh dân gian như: Năm Bà Ngũ Hành, Bà Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu), Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Thánh Anh, Kim Huệ v.v... Và đặc biệt là bất cứ miếu nào cũng đều có thờ Quan Thế Âm Bồ-tát, mà dân gian gọi là Phật Bà. Ngày Sóc vọng ở miếu có phần rộn rã hơn đình, qui tụ một bộn phận nam phụ lão ấu mà đa số là phụ nữ. Sinh hoạt của họ trong những ngày này là cúng rằm và lễ cầu an, tụng kinh Phổ Môn, kinh của Phật giáo. Sau đó là họp hội miếu bàn việc tương tế phước thiện giúp đỡ những hoàn cảnh tang tế khó khăn của người trong Hội.

2. Đối với người theo đạo Phật:

Phật giáo đối với nhân dân Nam bộ có mối gắn bó lâu đời trên mảnh đất này, hóa quyện với đạo Phật của người Khơme vốn có tự lâu đời. Tuy nhiên người Khơme sử dụng lịch Ấn Độ trong sinh hoạt, so với ngày Sóc, Vọng của người Việt với ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa, về hình thức sinh hoạt có khác nhau nhưng quan niệm như nhau.

3. Đối với người không theo tín ngưỡng:

Ngày Sóc, Vọng đối với họ như là ngày nghỉ ngơi trong lao động, nhưng có khác là họ vẫn coi như hai ngày truyền thống đạo lý, ngày lành nhất để sắm sửa cúng kiến ông bà tổ tiên. Quan niệm của họ là ngày cúng ông bà, là bổn phận chữ hiếu đối với người quá cố và giáo dục con cái theo truyền thống đạo lý đặc thù của dân Nam bộ: Hiếu và Nghĩa. Mọi hành động bất thiện, những nghề nghiệp thấp kém đều hạn chế hoạt động trong ngày Sóc, Vọng, như là nghề: mổ heo, bán rượu, cờ bạc v.v...

IV. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG ĐẠO LÝ DÂN TỘC:

a) Nói truyền thống, tức là nói đến mặt lịch sử của tập tục. Trải qua bao đời, ngày Sóc, Vọng đã trở thành tập tục của người Việt Nam trong bối cảnh cụ thể đất nước - và riêng ở Nam bộ. Đặc biệt là gắn vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp lúa nước - một nền nông nghiệp tùy thuộc vào con nước tự nhiên được tính toán bằng âm lịch một cách chính xác theo điều kiện sinh thái của miền Nam. Từ đó, văn hóa được dựa vào bối cảnh nông nghiệp ấy mà phát triển phù hợp với đất nước con người, được qui định bởi xã hội ấy.

Một ví dụ để chứng minh: Trong ngày Sóc, Vọng, là ngày con nước đầy ở mức cao nhất không có ròng sát, thì công việc đồng áng hầu như phải gác lại toàn bộ, không có thể cày cấy gieo trồng, chỉ có thể ngh ngơi bơi xuồng đi lại thăm hỏi nhau hay dự hội hè đình đám vui chơi, hoặc dự lễ nơi chùa chiền yên tĩnh...

b) Nói về đạo đức, tức là nói đến tính xã hội của tập tục. Đối với xã hội Nam bộ, ngày Sóc, Vọng là dấu ấn đậm nhất trong mọi sinh hoạt của họ, một ngày lành tốt để làm việc thiện, để răn mình đừng làm điều xấu trong công việc, hành vi ngôn ngữ và tư tưởng. Ở thành phố, chúng ta có thể không thấy được ảnh hưởng tư tưởng của những ngày này, vì xã hội công nghiệp chú trọng đến dương lịch, Chúa nhật và ngày nghỉ lễ là ngày vui chơi. Nhưng ở xã hội nông nghiệp thì ngày âm lịch chi phối tất cả, và ngày nghỉ là ngày Sóc, Vọng với một ý nghĩa đạo đức thanh thản tâm hồn chứ không phải vui chơi.

Đối với người dân Nam bộ ở miền quê, thì ngày Sóc, Vọng luôn ở trong tâm khảm họ suốt những ngày ấy. Khảo cứu qua tâm lý các tầng lớp ta thấy:

+ Đối với người già, đây là ngày nhắc nhở con cháu cúng ông bà, làm lành lánh dữ, và họ đi đến chùa chiền đình miếu để gặp gỡ nhau như hình thức câu lạc bộ bây giờ.

+ Đối với người trung niên, lao động chính của gia đình, đây là ngày nghỉ ngơi sau mọi vất vả lao động, để sống với gia đình, hoặc chè chén bàn luận nhân tình thế sự, kinh nghiệm lao động.

+ Đối với tầng lớp thanh thiếu niên, đây là ngày được phép đến chùa để "công quả", một hình thức của việc từ thiện xã hội, học tập đạo đức làm người và được gặp gỡ trao đổi tình cảm vui chơi với nhau.

+ Đối với trẻ con, các em coi đây là những ngày thiêng liêng, có thể nhận được sự tha thứ mọi lỗi lầm của mình nơi người lớn đến đình chùa, và được hưởng những phần bánh trái sau khi cúng bái.

Đời này tiếp nối đời khác sống trong tinh thần đạo đức như thế, tính xã hội được định hình qua ngày Sóc vọng ăn vào nếp nghĩ của con người từ khi tấm bé cho đến trưởng thành tựa như một bức tranh đậm nét thực và ảo khắc vào tâm trí họ hình ảnh quê hương thân yêu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2014(Xem: 6925)
‘Bạch Thế Tôn, mới rồi, một gia chủ giàu có ở thành Savatthi này qua đời mà không có con thừa kế. Con vừa cho chuyển tài sản của ông ta vào kho của hoàng cung; những tám triệu đồng tiền bằng vàng chưa kể số tiền bằng bạc. Mặc dù là một gia chủ giàu có, thế nhưng bữa ăn hằng ngày của ông ta thì chỉ là cháo nấu bằng gạo nát với bánh làm bằng đậu khô; y phục vỏn vẹn chỉ có ba mảnh vải dệt bằng sợi gai; phương tiện di chuyển là chiếc xe bò gãy gọng nóc lợp bằng rơm’.
29/07/2014(Xem: 8897)
Thông thường làm từ thiện, ai cũng liên kết với lòng Từ bi. Thấy ai làm từ thiện đều nghĩ người đó có tâm từ. Thật ra, cùng một động thái nhưng nội hàm có nhiều sai biệt. Có người vì xu hướng mà làm từ thiện, có người vì ham danh mà làm từ thiện, có người chạy theo phong trào mà làm từ thiện...những trường hợp nầy thiết nghĩ không cần phải đề cập, cái cần đề cập là những người thực tâm vì thương xót đối tượng mà làm từ thiện. Trường hợp nầy hoàn toàn đồng ý đây là tâm tốt, nhưng tốt đối với người bình thường trong xã hội, riêng với một Phật tử dù xuất gia hay tại gia, việc hành thiện còn phải xây dựng trên nền tảng tâm Bồ đề.
29/07/2014(Xem: 8862)
Tất cả chúng ta đều có thể bị bệnh. Một khi chúng ta được sinh ra trong vòng luân hồi sinh tử với thân thể này thì có nghĩa là chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những phiền não và nghiệp chướng, cho nên bị ốm đau là điều không thể nào tránh khỏi. Đó cũng chính là bản chất của cơ thể chúng ta - thân thể này sẽ già đi và sẽ bị bệnh. Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b)
24/07/2014(Xem: 10713)
Hôm nay chúng tôi xin nói đề tài Ba điều căn bản của người tu Phật. Vì chúng ta tu Phật phải biết thế nào là cội gốc, thế nào là ngọn ngành. Ba điều này tôi căn cứ theo kinh Pháp Hoa, nhắc lại cho quí vị nhớ và thực hành.
22/07/2014(Xem: 9849)
Hoà thượng Chánh Tâm trụ trì ở chùa Kim Liên. Một ngôi chùa cổ, xinh xắn, ấm cúng, nhiều cây cổ thụ bao quanh. Chùa toạ lạc dưới chân núi, cạnh một con suối nhỏ chảy róc rách. Ngài có hai đệ tử, thầy tỳ kheo Tâm An và chú sa di Tâm Bình. Thầy Tâm An xuất gia từ thuở ấu thơ, vì mồ côi mẹ sớm. Thầy lớn hơn chú Tâm Bình đến hai mươi tuổi. Thầy đảm trách hai chức vị, Thị giả và Tri khách, nghĩa là vừa chăm sóc Hoà thượng, vừa lo việc trong, việc ngoài ở chùa. Thầy bận rộn suốt ngày, nhưng lúc nào cũng tươi cười vui vẻ. Chưa bao giờ ai thấy Thầy sân si. Thầy luôn luôn giữ phép lục hoà, trên kính, dưới nhường, làm mọi việc trong chánh niệm tỉnh giác, cần mẫn tinh tiến trong việc tu học. Sau công phu tối, Thầy thường toạ thiền dưới gốc cây cổ thụ bên bờ hồ sau chùa. Từ khi còn thơ ấu, Thầy đã được sự dìu dắt dạy bảo ân cần của Thầy Bổn Sư.
21/07/2014(Xem: 10688)
Những món thực phẩm dưới đây rất quen thuộc và bổ dưỡng. Nhưng nếu ăn không đúng cách thì hậu quả mà chúng đem lại cũng khôn lường.
19/07/2014(Xem: 13393)
Ba nạn nhân vụ máy bay MH17 bị bắn gồm chị Nguyễn Ngọc Minh, 37 tuổi; con gái Đặng Minh Châu, 17 tuổi; và con trai Đặng Quốc Duy, 13 tuổi. Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận có ba công dân Việt Nam mang quốc tịch Hà Lan trên máy bay thiệt mạng. Sáng nay cán bộ Cục Lãnh sự đến thăm và chia buồn cùng gia đình chị Minh. Nguyện vọng của bố mẹ chị Minh là đưa thi thể ba mẹ con về Việt Nam vì chị Minh và hai cháu sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Gia đình cũng cung cấp mẫu ADN để gửi sang Ukraine giúp hỗ trợ công tác nhận dạng các nạn nhân. Người bạn thân của chị Ngọc Minh kể với VnExpress, rằng gia đình chị Minh vừa đến dự đám cưới bạn ở Anh hôm 13/7. Theo kế hoạch, ba mẹ con sẽ quá cảnh tại Kuala Lumpur, Malaysia, trước khi về Hà Nội. Chị Nguyễn Ngọc Minh và hai con sống ở Delft, một thị trấn nhỏ cách thủ đô Amsterdam (Hà Lan) 60 km. Tháng 8/2013, chồng chị là Đặng Quốc Thắng qua đời trong một tai nạn tàu.
19/07/2014(Xem: 9827)
Niềm an lạc của mùa An cư tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, vẫn theo mãi mỗi hành giả sau khi mãn hạ, trên đường đi về, ngay cả hôm nay tại từng trú xứ và đã lan tỏa về đến Việt Nam, qua 5 Trường Hạ ( gần 500 vị) đang còn cấm túc, mà người viết đã chia sẻ cúng dường với số tiền nhận được tại Trường Hạ Quảng Đức. Người viết, đoan chắc niềm an lạc ấy sẽ còn lan tỏa và lợi ích nhiều hơn như vậy. Vì nếu là người con Phật chân chính sẽ TÙY HỶ trước tấm lòng rộng mở, với sự thỉnh mời thân thiết. Khi đến đạo tràng Quảng Đức, nhận được sự niềm nở, hân hoan với tình pháp lữ mặn nồng của nhị vị Thượng Tọa Viện Chủ và Trụ Trì Tu Viện.
18/07/2014(Xem: 15386)
Có một Phật tử gửi thư cho tôi và đặt câu hỏi về vấn đề quy y. Tôi xin ghi lại và trả lời, mong rằng có thể giải tỏa khúc mắc cho những người cùng cảnh ngộ. Nguyên văn lá thư: Kính bạch thầy, Đây là câu chuyên có thật 100% nơi con ở, nhưng con xin phép dấu tên những nhân vật trong câu chuyện.
18/07/2014(Xem: 7425)
Không phải vì hiện tượng “Một vì sao đã tắt trên trời Âu“ mà Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 26 phải… đóng cửa! Không, các Phật tử Âu Châu chúng tôi nhất quyết không phụ lòng mong đợi của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Tâm tức Sư Ông Khánh Anh thân thương của chúng tôi, đã cùng nhau kéo đến xứ thần tiên Thụy Sĩ có núi cao, hồ đẹp tại Fribourg để tu học từ ngày 30 tháng 6 đến 10 tháng 7 năm 2014.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]