Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khai bút đầu năm: Cho và nhận

26/01/201203:43(Xem: 8543)
Khai bút đầu năm: Cho và nhận
KHAI BÚT ĐẦU NĂM
CHO VÀ NHẬN
Nguyễn Thượng Chánh

chovanhanTrong đờisống hằng ngày, cho để nhận là một chuyện rất bình thường trong mọi sự trao đổilẫn nhau. Tôi trả tiền, tôi nhận món hàng. Vậy, chođể nhận là một quy luật tự nhiên hay còn là một nguyên tắc đạo đức? Đó là mộthành động tự nguyện, bất vụ lợi, xuất phát từ lòng thương người? Nhưng có điều chắc chắn là lòng vị tha bác ái, cho qua con tim, mới thật sự đem đến cho tanhiều hạnh phúc.

***

Một nguyên tắc tư bản: cho để nhận

“ Anh hãy cho tôi những gì tôi cần và anh sẽ nhận đượcnhững gì anh cần”. Đó là nguyên tắc cho để nhận (Give and take hayDonnant -donnant) của xã hội tư bản.

Cho cũng có nghĩa là bán cho. Vô tiệm ăn mình thường gọi:cho tôi ly cà phê sữa đá. Tôi đưa anh 3$, tôi nhận ly cà phê. Tiền trao cháomúc.

Nghĩ rộng ra, nguyên tắc trên cũng có thể đem áp dụngvào cá nhân mỗi người.

Chúng ta cần phải ăn, cần phải uống và cần tập thể dụccho cơ thể được khỏe mạnh.

Người mẹ cho con bú để nó sống và lớn khôn nên người.Đó là món quà tình mẫu tử cho và nhận. Hạnh phúc của con chính là hạnh phúc củangười mẹ (cycle du don).
Trong mối tương quan giữa con nguời với nhau, tiền bạclà biểu tượng để mọi người có thể trao đổi hàng hoá và dịch vụ lẫn nhau.

Cho, đổi chác và tặng

Cho để nhận là nguyên tắc của mọi sự đổi chác.

Trong xã hội ngày nay, muốn sống với người khác thì cầnphải có sự đổi chác qua lại.

Đôi khi cho cũng có thể là một hành động bất vụ lợi xuấtphát từ lòng bác ái, thương người.

Tặng đúng nghĩa ra là cho mà không đòi hỏi phải có sựđền đáp hay trả lại.

Cho để nhận, một nguyên tắc trong mối giao tiếp xã hội.

Theo phong tục Việt Nam thì bánh ít có đi thì bánh quy phải có lạimới toại lòng nhau. Đó là phép xử thế lịch sự trong xã hội để mọingười đều được vui vẻ với nhau.

Cho tiền cho bạc, cho của cải vật chất, cho công sứcvà sự ân cần, săn sóc cũng có thể với dụng ý lợi dụng, tạo cảm tình, để tìm ânhuệ, hoặc chức vụ sau nầy. Có khi cho ít mà nhận được nhiều. Người đời thườngnói đó là thả con tép để bắt con tôm.

Cũng có người cho hay bố thí có chủ đích, để mong cầuđược phước báo, cho cha mẹ và cho bản thân mình lúc chết được vãng sanh về cõiTây Phương Cực Lạc.

Cho mà không cầu được đền đáp lại có thể bị người ta lợidụng chăng?

Con người rất phức tạp. Cho một món quà không mấy đánggiá đôi khi có thể bị hiểu lầm là khinh khi người ta

Có người làm ăn lươn lẹo, chôm chỉa nhiều quá nên cầnbố thí bớt để nhẹ tội với lương tâm đồng thời cũng để chứng tỏ là mình là ngườihào phóng. Có người bố thí hầu để được giảm thuế cuối năm.

Có người cho để lấy tiếng.

Có người cho vì bị ép buộc, vì sợ người ta trù ẻo làmkhó dễ, vìsợ người ta trách mình keo kiệt.

Tuy nhiên cũng có người cho vì lòng vị tha bác ái vàthương người nghèo khó, khốn khổ. Họ không mong đợi được đền đáp nhưng chắc chắnlà họ nhận được niềm vui tinh thần rất nhiều.

Theo nhà nhân chủng học Marcel Mauss, chúng ta bắt buộcphải trả lễ lại mỗi khi chúng ta nhận được một món quà hay một sự giúp đỡ từ mộtngười nào đó.

Nghiên cứu về phong tục tập quán của các bộ lạc thiểusố bán khai ở quần đảo Nam Dương và Tân Tây Lan, qua tản văn Essaisur le don(1923) Gs Marcel Masscho biết tập tục Potlatch(tập tục hệthống quà biếu) được xem là vô cùng quan trọng trong sinh hoạt hằng ngày haytrong những dịp lễ hội giữa các bộ lạc với nhau.

Mỗi khi một cá nhân hay một bộ lạc nhận được quà biếuthì họ bắt buộc phải trả lễ lại bằng một món quà khác có giá trị tương đươnghay cao hơn món quà mà họ đã nhận được.

Món quà trả lễ có thể được biểu hiện dưới nhiều hìnhthức khác nhau như: dụng cụ nhà bếp, bàn ghế, tiệc tùng ăn nhậu, nhảy múa, thậmchí có thể là phụ nữ và trẻ em v,v...

Potlatchbiểu tượng của sự hài hòa trong xã hội, cũng như quyền quy và sức mạnh của bộ lạc.

Người cho quyết định giá trị món quà mà họ đem biếu.

Phải chăng potlatchcũng là một nguyên tắc và là một nền tảng trong xã hội ngày nay của chúng ta?

Người ta chào mình, vì phép lịch sự bắt buộc mình phảichào lại họ.

Theo cách suy nghĩ của nhiều người thì của biếu là của lo, của cho là của nợ. Đó là potlatch.

Hôm nay người ta đi đám cưới con mình, sang năm thìmình có bổn phận phải đi dự đám cưới của con họ để trả lễ lại.

Các tôn giáo nghĩ gì?

*Theo ThiênChúa Giáo

Đức Chúa Trời là đấng toàn năng, tạo ra mọi sự vậttrên Trời và dưới thế. Chúa cho chúng ta sự sống đời đời.

Từ thiện được xây dựng từ lòng thương yêu bất vụ lợikhông màng đến sự báo đáp hay nhận lại bất cứ điều gì cả. Cho xuất phát từ lòngthương yêu không giới hạn.

Kinh Thánh có nói “Cho sẽ mang đến cho ta nhiều hạnhphúc hơn nhận”

Act.20.35 Luc14.12-14. « Il y a plus debonheur à donner qu'à recevoir »

Công Giáo khuyên bảo tín đồ phải có trách nhiệm giúp đỡngười khốn khổ, kém may mắn.

«Giáo hộiđã nhiều lần dạy bảo con cái mình rằng: giúp đỡ người nghèo và người kém maymắn là một trách nhiệm đặc biệt của người công giáo bởi vì họ là chi thểcủa Thân Thể Chúa Kitô. “Vì chính trong Thân Thể này chúng ta biết tình yêu củaThiên Chúa,” như tông đồ Gioan cho chúng ta biết: “đó là Đức Ki-tô đã thí mạngvì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳngđộng lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được” (IJn 3: 16-17) (cf. Mater et Magistra,# 159) ». (Br. Huynhquảng. Công Giáo Việt Nam)

Nghiên cứu tâm lý xã hội học gần đây cũng chứng minh lờinói trên của Kinh thánh là cho mang đến nhiều hạnh phúc hơn nhận.

Người cho tiền của hay giúp đỡ người khác thường cảmthấy mình được sung sướng và hạnh phúc hơn những người nhận được tiền hay nhậnđược sự giúp đỡ.

Tuy vậy cũng có người còn nghi ngờ điều trên.

Theo họ, sự khác biệt giữa người hảo tâm và ngườikhông có lòng hảo tâm được xuất phát từ lòng tin và thái độ của họ. Có bốn độnglực rõ rệt đã ảnh hưởng và nung đúc đến lòng hảo tâm của con người : đứctin vào tôn giáo, lòng bi quan không tin chánh phủ về đời sống mặt kinh tế, giađình vững mạnh, và vào đầu óc kinh doanh làm ăn của họ.

The difference between givers and nongiversis found in their beliefs and behaviors. Four distinct forces emerge from theevidence that appear primarily responsible for making people charitable. Theseforces are religion, skepticism about the government in economic life, strongfamilies, and personal entrepreneurism.”( Arthur C.Brooks,Professor of publicadministration at Syracuse University’s Maxwell School of Citizenship andPublic Affairs.)

*TheoPhật Giáo

Cho hay bố thí là một hạnh trong Phật giáo.

Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của BồTát.

Sau đây tác giả xin tóm lược các điểm chánh trong bài Bốthícó mấy loại(Kinh Điển Phật Pháp) và Bố Thí Ba La Mật(Thích Trí Siêu).

Bố thí có 3 loại:

1) Tàithí: tức bố thí tiền
2) Phápthí: bố thí pháp
3) Vôúy thí: tức bố thí sự không sợ hãi

Ba loại bố thí vừa nêu được gọi chung là vật thí.

*“Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếutố tạo ra nó: người cho (năng thí),món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.Nếu thiếu một trong ba yếu tố kể trên thì sẽ không có sự bố thí.

Có người cầm trong tay một món đồ muốn cho mà không cóai nhận thì không có sự bố thí. Có món đồ mà không có người cho và người nhậnthì cũng không có sư bố thí. Có người sẵn sàng nhận đồ mà không có ai cho thìcũng không có sự bố thí.

*Một sự bố thí được xem là trong sạch và đem lại phướcbáo vô lượng vô biên cần phải có ba yếu tố sau đây

- Người bố thí phải có tâm trong sạch.

- Vật được thí phải chân chính.

- Người nhận phải được kính trọng tối đa”.

Kết luận

Cho để làm gì? Quả thật đây là một vấn đề rất phức tạpvà khó giải nghĩa cho thỏa đáng được.Tùy theo người, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo sự hiểu biết và đức tinh tôn giáomà có thể có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau.

Người gõ xin mượn lời của thầy Thích Trí Siêu để nóilên sự phức tạp của ngôn ngữ Việt Nam:

Tiếng Việt của ta rắc rốilắm, không phải dễ dàng đâu! Nếu không chú ý cẩn thận một chút là ta có thể gâyphiền phức cho chính mình và cả người khác nữa.
Như ta đã thấy Bố thí gồm có nhiều nghĩa: cho, tặng, biếu, cúng dường, bốthí... ta tạm gọi tất cả những cái đó là Bố thí”.

Thích Trí Siêu

Tham khảo:

- Thích Trí Siêu- BốThí Ba La Mật
/D_1-2_2-227_4-2075_5-75_6-4_17-307_14-1_15-2/bo-thi-ba-la-mat.html
- Kinh Điển Phật Pháp.Bố thí có mấy loại
http://phatphap.wordpress.com/2007/10/22/b%E1%BB%91-thi-co-m%E1%BA%A5y-lo%E1%BA%A1i/
- Marcel Mauss (1923-1924). Essai sur le don. Forme et raison de l’échange dans les sociétés archaïques
http://www.congoforum.be/upldocs/essai_sur_le_don.pdf
- James Randerson. The path tohappiness: it is better to give than receive
http://www.guardian.co.uk/science/2008/mar/21/medicalresearch.usa
- ThomasFitzpatrick. It is better to give than toreceice-No, really.
http://www.vision.org/visionmedia/article.aspx?id=4400
- Br Huynh Quảng-Công Giáo Việt Nam. Nạn nghèo đói và lòng từ thiện.
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=19&ia=5768
- Suzan K Minorik.The extraordinary happiness of heartfeltgiving
http://www.positive-living-now.com/tag/giving-and-happiness/

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7335)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6556)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6139)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6023)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7564)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4631)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9629)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5756)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5352)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6067)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]